Phần 1
BS NGUYỄN MINH
TIẾN
Liệu pháp Thân chủ trọng tâm
(client-centered psychotherapy), hoặc theo cách gọi tên với nghĩa rộng hơn như
hiện nay là Nhân vị trọng tâm (person-centered psychotherapy), là thuật ngữ
được chọn để gọi tên cho một nhóm những phương pháp trị liệu tâm lý dựa trên
quan điểm lý thuyết về bản chất con người và các tương tác xã hội được phát
triển bởi Carl Rogers vào hai thập niên 1940 và 1950 (Brodley; 1988). Rogers là
người đầu tiên dùng tên gọi ấy để chỉ phương pháp trị liệu của mình. Sau đó,
nhiều tác giả khác đã phát triển thêm các “phân nhánh” cho lọai liệu pháp này;
trong đó phải kể đến Eugene Gendlin với “liệu pháp kinh nghiệm” (experiential
psychotherapy; 1979) và các tác giả Leslie Greenberg, Laura Rice, Robert Eliott
với “liệu pháp tiến trình-kinh nghiệm” (process-eperiential psychotherapy;
1993).
Lúc còn trẻ, C. Rogers đã
dành phần lớn thời gian cho cuộc sống ở nông trại, nơi mà ông đặc biệt quan tâm
đến công việc nghiên cứu các quá trình kích thích tăng trưởng cây trồng và làm
các thực nghiệm về nông nghiệp. Công việc kích thích tăng trưởng và kiểm định
các giả thuyết trong nghiên cứu đã giúp hình thành những thái độ trong cuộc
sống cũng như sau đó trở thành những đặc trưng cơ bản trong quan điểm làm việc
của Rogers.
Về sau, khi Rogers làm
công việc của một chuyên viên tham vấn tại một trung tâm hướng dẫn trẻ em
(child guidance clinic), ông đã tiếp xúc với các tư tưởng của Otto Rank – người
đã có ảnh hưởng đến Rogers về một số quan điểm như: nhấn mạnh vào tiềm năng
sáng tạo của con người, việc trị liệu có mục đích nhắm đến sự chấp nhận bản ngã
như là một thực thể độc đáo và có khả năng tự lực, lòng tin vào thân chủ như là
nhân vật trung tâm của tiến trình trị liệu, thân chủ là nhà trị liệu của chính
mình, và việc trị liệu phải nhấn mạnh vào các trải nghiệm đang xảy ra trong
hiện tại hơn là những gì đã xảy ra trong quá khứ... (Raskin & Rogers;
1989).
Rogers cũng chịu ảnh hưởng
bởi trào lưu tư tưởng của Roosevelt vào thập niên 1930, từ đó hình thành nên
quan điểm lạc quan của Rogers về bản chất con người và niềm tin rằng con người
cần phải được đối xử một cách tôn trọng và có lý lẽ ngay cả khi hành vi của họ
không phải lúc nào cũng hợp lý.
Tuy nhiên, đối với Rogers,
ảnh hưởng lớn nhất mà ông có được là từ những trải nghiệm của những thân chủ mà
ông đã tiếp xúc và làm việc. Theo Rogers, chính thân chủ là người biết rõ điều
đau khổ của họ là gì, hướng đi của họ sẽ về đâu và vấn đề nào là cấp thiết.
Vào thập niên 1940, Rogers
gọi liệu pháp của mình là “liệu pháp không hướng dẫn (non-directive therapy).
Ông nhấn mạnh vào tính chất đặc trưng của nhà trị liệu là không hướng dẫn thân
chủ của mình. Mục đích trị liệu là tạo ra một bầu không khí cởi mở và không can
thiệp. Vào thập niên 1950, Rogers bắt đầu nhấn mạnh đến “sự thấu cảm” (empathic
understanding) và sang thập niên 1960, những tính cách của nhà trị liệu được
Rogers nhấn mạnh là “sự hài hòa” (congruence) và “tính trung thực”
(genuineness).
Về sau, Rogers áp dụng
quan điểm của mình một cách sâu rộng hơn ra ngoài các môi trường khác không
thuộc tâm lý trị liệu và làm việc với các nhóm người không phải là thân chủ...
Quan điểm thân chủ trọng tâm ảnh hưởng sang cả ngành giáo dục ở Hoa Kỳ, và điều
đó khiến Rogers đặt lại tên cho phương pháp của mình là “nhân vị trọng tâm”
(person-centred) để phản ảnh sự chuyển đổi đối tượng của phương pháp không chỉ
bao gồm những thân chủ trong tâm lý trị liệu mà còn nhắm đến bản chất con người
và các mối tương tác xã hội nói chung.
Liệu pháp thân chủ trọng
tâm có thể áp dụng cho rất nhiều loại thân chủ/bệnh nhân ở nhiều lọai cơ sở trị
liệu khác nhau. Carl Rogers khởi đầu việc trị liệu của mình như một nhà trị
liệu theo định hướng phân tâm tại Trung tâm Hướng dẫn Trẻ em ở New York, nơi
ông làm việc với những trẻ em thiệt thòi và gia đình của chúng. Sau đó, ông làm
việc tại Trung tâm Tư vấn thuộc Đại học Chicago, phục vụ cho các đối tượng
trong cộng đồng cũng như cho các sinh viên đại học.
Những nhà trị liệu theo
trường phái thân chủ trọng tâm có thể làm việc với thân chủ có đủ mọi loại vấn
đề như trầm cảm, lo âu, rối loạn nhân cách và cả các bệnh nhân loạn thần.
Theo Smith (1982), Carl
Rogers được xếp hạng là nhà tâm lý trị liệu có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất,
vượt trên cả ảnh hưởng của Sigmund Freud, mặc dù trong thực tế chỉ có khoảng 9%
trong tổng số các nhà trị liệu tự nhận mình theo trường phái thân chủ trọng
tâm. Mặt khác, hầu hết các nhà trị liệu hiện nay có xu hướng đi theo quan điểm
chiết trung (eclectic), và khỏang 1 phần 3 trong số này phối hợp liệu pháp thân
chủ trọng tâm với các lọai liệu pháp nhân văn khác theo nhiều định hướng khác
nhau (Norcross & Prochaska; 1988).
Khái niệm về nhân cách - Nhân cách như một tiến trình
Liệu nhân cách con người
có tính kiên định, vững chắc, khó thay đổi như cấu trúc của một tòa nhà, hay là
nó có thể thay đổi như các giai điệu của một ca khúc?
Học thuyết thân chủ trọng
tâm cho rằng nhân cách con người có tính chất giống như các giai điệu của một
bản nhạc mà người ta có thể “chơi” theo nhiều kiểu khác nhau, vào những thời
điểm khác nhau trong cuộc đời mình. Điều đó có nghĩa là: con người những “cấu
trúc đang diễn tiến” (structure-in-process).
Trường phái thân chủ trọng tâm
không phủ nhận các cấu trúc, ví dụ các nét tính cách vẫn có thể tồn tại, và
cũng không phủ nhận tính hằng định liên tục của nhân cách theo thời gian. Nhưng
điểu quan trọng là các cấu trúc nhân cách vẫn liên tục thay đổi dù đôi lúc
chúng có vẻ bất biến và không đổi. Có thể so sánh sự thay đổi ấy với sự thay
đổi trong hình thể của các cấu trúc trong tự nhiên như núi, sông, bờ biển...
Trong khi nhìn bề ngoài các cấu trúc ấy không thay đổi nhưng các hiện tượng
trong tự nhiên lại liên tục làm biến đổi chúng theo kiểu bồi đắp thêm hoặc hủy
hoại, bào mòn...
Caspi và cs. nhận thấy
những người có tính cách lệ thuộc khi còn thơ bé vẫn có thể giữ lại đôi nét
những tính cách ấy khi lớn lên nhưng có thể biểu hiện chúng dưới những hình
thức trưởng thành hơn như nương tựa lẫn nhau và duy trì những mối quan hệ hỗ
trợ. Bản thân các học thuyết của Freud hay Rogers cũng là những “cấu trúc đang
diễn tiến”: các quan điểm của họ cũng liên tục thay đổi và tăng trưởng dù cả
hai lý thuyết đều có những quan điểm nền tảng khá kiên định.
Có thể nói quan điểm xem
nhân cách như một tiến trình nhấn mạnh: các nét nhân cách (personality traits)
không phải là những cấu trúc kiên định mà được xem là các “chiến lược hành
động” (action strategies) (Cantor; 1990) và nói chung, trường phái thân chủ
trọng tâm xem con người như
một tiến trình sống.
Cuộc sống qua từng thời
khắc (moment-by-moment living)
Trong khi các tác giả của
“Giả thuyết tái hiện” (reappearance hypothesis) cho rằng “con người học tập và
bảo lưu những khái niệm, hình ảnh, ký ức, và rồi hành động, đơn giản chỉ là tái
hoạt lại những nhu cầu và đòi hỏi, chính xác như những bản sao của các sự kiện
đã xảy ra trước đó” (Anderson, 1974); trường phái thân chủ trọng tâm cho rằng
thực tế xảy ra trái ngược lại: “Hành vi của các loài sinh vật, mỗi cái đều xảy
ra lần đầu tiên... và không có gì rõ ràng cho thấy rằng có một hành vi nào đó
được lập lại vào lần thứ hai. Chúng ta liên tục làm nên những điều mới mẻ...
Khi xem xét kỹ, chúng ta thấy những hành vi có vẻ như được lập lại thực sự lại
thể hiện những sự khác lạ dưới một dạng thức nào đó... Bạn không bao giờ chải
răng hai lần hoàn toàn giống nhau.” (Epstein, 1991).
Tiềm năng học tập (Learning potential)
Để có chức năng sống đầy
đủ, con người phải học tập liên tục qua từng giây phút một. Con người tiếp nhận
các phản hồi từ môi trường sống, rồi điều chỉnh ứng xử của mình khi tương tác
với những người khác xung quanh. Con người sống tốt nhất khi họ hành động một
cách thông minh, và liệu pháp thân chủ trọng tâm luôn nhấn mạnh đến việc tăng
cường khả năng suy nghĩ rõ ràng và thông minh của thân chủ (Van Balen, 1990;
Zimring, 1990). Việc học hỏi thường xuyên sẽ giúp bổ sung thêm các chi tiết và
làm mới lại những niềm tin, các khái niệm, các sơ cấu, các cấu trúc và vận hành
các nét nhân cách. Theo thời gian sự học tập giúp cho sự tiến triển dần dần các
thuộc tính và, đến một lúc nào đó, dẫn đến sự biến đổi đang kể các đặc trưng
của một con người.
Tiềm năng tăng trưởng (Growth potential)
Carl Rogers lúc đầu nói đến “khuynh
hướng hiện thực hóa” (actualizing tendency) ở các lòai sinh vật và về sau ông
mở rộng ý tưởng này bằng việc cho rằng: khuynh hướng hiện thực hóa chỉ là hình
thức cá biệt của một khuynh hướng được định hình rộng lớn hơn của cả vũ trụ,
được tìm thấy ở ở những sinh vật lẫn những vật thể vô tri, đó khuynh hướng nhắm
đạt đến một trật tự tốt hơn, phức tạp hơn và có tương quan gắn kết hơn. Tiến
trình này lại bao gồm hai tiến trình nhỏ hơn là thống hợp (integration) và biệt
hóa (differentiation).
Ở mức độ cá nhân một con
người, khuynh hướng hiện thực hóa nhắm đến phát triển cá nhân đó bằng cách tạo
lập một cấu trúc sống vừa thống hợp hơn vừa biệt hóa hơn. Điều nhấn mạnh ở đây
không phải là việc con người về cơ bản là tốt hay xấu, mà là con người về cơ
bản có một “tiềm năng thay đổi” (Shlien & Levant, 1984). Nghiên cứu trên
những trẻ em lớn lên và sống sót trong những hòan cảnh sống bất lợi cho thấy sự
phát triển tâm lý của con người có những khả năng tự bảo vệ và tự điều chỉnh
rất cao (Masten, Best, Garmazy, 1990).
Khả năng sáng tạo (creativity)
Để sống đầy đủ, con người phải sáng tạo
trong cuộc sống hằng ngày, bởi mỗi tình huống khi xảy ra đều có sự khác biệt
đôi chút so với trước đó, và hiện tại luôn đặt ra những thách thức cho sự vận
dụng một cách sáng tạo những gì đã học vào những hoàn cảnh sống mới. Trong quá
trình sống, con người thường xuyên khám phá và phát hiện những cách thức mới để
tồn tại và ứng xử, dù rằng phần nhiều các cách thức mới này chỉ thể hiện những
điều chỉnh sáng tạo tương đối nhỏ.
Khả năng định hướng
tương lai (future orientation)
Một người luôn khám phá và học hỏi sẽ có
thể tìm được sự định hướng cho tương lai và những khả năng còn để ngỏ của nó.
Con người là sinh vật biết nhìn đến phía trước do những hành vi của con người
được hướng dẫn bởi những gì mà họ tưởng tượng sẽ xảy ra trong những thời khắc
sau đó hơn là bởi những gì mà họ thấy được trong hiện tại (Markus & Nurius,
1987). Chính bằng cách tiên liệu được những gì sẽ xảy đến, bằng cách nào
việc ấy xảy ra và bản thân mình có khả năng gì để đạt đến việc ấy, mà con người
xác định được hành vi của mình. Shlien (1988) đã khẳng định rằng: “Tương lai
quan trọng hơn quá khứ trong việc xác định hiện tại”. Quá khứ ảnh hưởng đến
chúng ta vì chúng ta sử dụng kinh nghiệm từ quá khứ để tiên liệu cho tương lai,
chứ không phải vì quá khứ “kết dây nối” vào cuộc sống chúng ta rồi máy móc điều
khiển hành vi của chúng ta.
Tương tác (interaction)
Con người có bản chất tương tác với
nhau. Con người luôn luôn là “con-người-trong-bối-cảnh”. Hành vi của một người
luôn xuất phát cả từ nhân cách của người ấy lẫn từ trong những mối quan hệ
trong cuộc sống của người ấy. Môi trường sống của một con người bao gồm gia
đình và các quan hệ liên cá nhân khác như hàng xóm, các mạng lưới hỗ trợ xã
hội, các thông số và giá trị về văn hóa. Ngòai ra còn có các quan hệ trong nghề
nghiệp, kinh tế, tôn giáo, chính trị... Có một giao diện động và liên tục giữa
cái ngã và các tình huống bên ngòai. Chúng ta tự “định cấu hình” cho bản thân
để phần nào đó đáp ứng lại với những gì được cho là quan trọng và đang hiện
diện trong thời khắc hiện tại. Vì thế, một “bộ mặt” nào đó của chúng ta sẽ có
thể xuất hiện trong tình huống này và một “bộ mặt” khác lại xuất hiện trong một
tình huống khác. Đây là quan điểm về “trường” (field) trong hành vi con người
và cũng tương thích với quan điểm hệ thống.
Cái ngã trong bối cảnh,
Tính tự chủ và Chủ nghĩa cá nhân
(Self-in-context, Autonomy &
Individualization)
Đối với Carl Rogers, việc đạt đến sự tự
chủ là một mục đích rất quan trọng trong sự phát triển của con người, cũng như
đối với hầu hết các học thuyết về nhân cách ở phương Tây. Rogers cho rằng một
con người có chức năng sống đầy đủ là người có khả năng tự kiểm soát và hành
động dựa trên các giá trị mà bản thân đã lựa chọn chứ không cứng nhắc tuân thủ
theo các uy lực từ bên ngoài.
Tuy nhiên, một số các tác
giả thuộc trường phái thân chủ trọng tâm ngày nay đã phê phán việc Rogers đã
quá nhấn mạnh đến sự tự chủ và chủ nghĩa cá nhân, và cả kiểu tư duy như thế ở
phương Tây nói chung (Holstock, 1990; O’Hara, 1992). Họ cho rằng các giá trị
này có tính đặc hiệu của nền văn hóa phương Tây, thậm chí còn đặc trưng nhiều
cho nam giới, và các tác giả này nhấn mạnh hơn đến một khái niệm khác (cũng rất
phương Tây) đó là khái niệm “đồng phụ thuộc” (codependency) (Bishop, 1992).
Những tác giả này cho rằng trong một số nền văn hóa khác, đường biên giới phân
định cái ngã của mỗi người không chỉ dừng lại ở lớp da của người đó, mà còn có
thể trải rộng sang cả gia đình và những tập thể rộng lớn hơn. Họ nhấn mạnh đến
những đường biên giới uyển chuyển hơn là những đường biên giới cứng nhắc của
cái ngã theo kiểu tâm lý học phương Tây. Những yếu tố xác định hành vi của con
người nằm trong một “trường” gồm nhiều lực tác động, bao gồm cả cái ngã, điều
đó trái ngược với tâm lý học phương Tây trong đó những yếu tố nguyên nhân được
xem là định vị bên trong cá nhân mỗi người.
O’Hara (1992) đưa ra khái
niệm về một “cái-ngã-trong-bối-cảnh”, qua đó ông nhấn mạnh đến bản chất của con
người là có tính liên kết lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Barrett Lennard (1993)
cũng cho rằng “cái ngã của một cá nhân chỉ là một trong những hình thức thể
hiện của đời sống lòai người; các hình thức khác có thể kể ra bao gồm các mối
quan hệ, gia đình và cộng đồng xã hội”. O’Hara và Wood (1993) cho rằng “Cá nhân
không mất đi bản sắc của mình khi ở bên trong tập thể. Họ chỉ làm cho tương hợp
giữa cái Tôi và cái Chúng Ta”.
Arthur Bohart (1995) tin rằng
yếu tố chính vận hành xuyên suốt trong khái niệm về tính tự chủ của Rogers
chính là một sự cảm nhận về tính hiệu quả (agency): Một thứ cảm nhận khi con
người đương đầu với các thách thức. Tính tự chủ hay tự lập không hàm ý là một
cảm nhận về sự tự thỏa mãn, mà quan trọng hơn đó là cảm nhận về khả năng và
tính hiệu quả của bản thân mình. Bởi vì sự thử thách luôn là phần cố hữu hiện
diện bất cứ khi nào con người làm một việc gì đó trong cuộc sống (nghề nghiệp,
quan hệ, chăm sóc con cái...). Cho nên khi có được cảm nhận về khả năng của bản
thân, con người sẽ có thể đối mặt và đương đầu tốt với các thách thức, và đó
cũng chính là nền tảng của chức năng sống hiệu quả (Dweck & Leggert, 1988).
Một định hướng nhắm đến việc đương đầu với các thử thách sẽ dẫn chúng ta tập
trung vào tiến trình thực hiện một công việc hơn là chú trọng đến kết quả của
nó, và thất bại được xem là loại thông tin được học tập để rút kinh nghiệm hơn
là thông tin cho thấy sự kém hiệu quả của một ai đó.
Thực tế khác nhau giữa các
nền văn hóa dẫn đến các khái niệm khác nhau về cái ngã. Nhà tâm lý trị liệu
phải tôn trọng tiềm năng tăng trưởng sẵn có bên trong thế giới nhận thức của
từng cá nhân con người hơn là sử dụng những phương thức “khách quan”, “đúng
đắn” để áp dụng đối với họ.
Giao tiếp
Thúc đẩy sự giao tiếp giữa
những cá nhân có thế giới nhận thức khác nhau (ví dụ, giữa thân chủ và nhà trị
liệu) là điều quan trọng hơn việc phán xét về quan điểm ai đúng, ai sai. Việc
cởi mở chia sẻ những cảm xúc và quan điểm theo cách thức tôn trọng lẫn nhau,
trong một bầu không khí có tính chấp nhận sẽ thúc đẩy mối quan hệ hướng đến sự
hòa hợp giữa những đối tác và huy động được “sự thông thái của cả hai bên hoặc
của cả nhóm”. Đây cũng là điều quan trọng cho các cặp vợ chồng, các gia đình,
cơ quan, giữa các dân tộc và các quốc gia.
Mối quan hệ hài hòa giữa hai cái ngã
Đó là một tiến trình giao
tiếp mà trong đó tất cả các khía cạnh của cái ngã được tôn trọng, được lắng
nghe đều quan trọng ngang nhau từ hai phía đối tác. Khi được lắng nghe một cách
thân hữu, cởi mở, tất cả những khía cạnh của cái ngã như ý nghĩ, cảm xúc và
những trải nghiệm (bao gồm cả những “lời nói bên trong” được nhập tâm từ cha mẹ
và xã hội), thì khả năng bên trong của mỗi người sẽ vận hành hướng đến sự tổng
hợp đầy sáng tạo. Tất cả những “tiếng nói bên trong” cũng có thể tham gia góp
phần vào.
Sự hài hòa (congruence)
chính thực là một tiến trình nội tại (Lietaer, 1991). Sự hài hòa không luôn
luôn có nghĩa là sự hài hòa trong nội tâm (inner harmony). Một cảm nhận về sự
hài hòa nội tâm có thể xuất hiện rồi mất đi. Tuy nhiên, nếu một người nào đó có
tính hài hòa – cởi mở và chấp nhận tất cả những “tiếng nói bên trong” – thì
tiến trình tổng hợp một cách sáng tạo sẽ vận hành đi tới.
Trải nghiệm, Cảm xúc và Tình cảm
Nhà trị liệu thân chủ
trọng tâm vừa đánh giá cao những suy nghĩ thông minh, hợp lý, vừa xem trọng
những cảm xúc và trải nghiệm; tất cả đều là những nguồn thông tin quan trọng về
cách thức mà con người đương đầu một cách sáng tạo với thế giới bên ngoài.
Tuy nhiên, những trải
nghiệm thì không giống với các suy nghĩ hợp lý, nhưng chúng lại là cách thức
căn cơ hơn giúp con người hiểu được bản thân và thế giới bên ngoài. Trải nghiệm
cũng khác với tình cảm (Bohart, 1993). Trải nghiệm là mô hình nhận biết một
cách trực tiếp, không dùng lời, các cách thức vận hành và các mối quan hệ trong
thế giới, giữa cái ngã và thế giới bên ngòai, và giữa cả những thành tố bên
trong cái ngã. Trải nghiệm bao gồm cả điều thường được gọi là sự “trực giác”.
Tuy nhiên, chẳng có gì là huyền bí ở đây cả. Chúng ta vẫn thường cảm nhận và
nhận biết được các mối liên hệ mà chúng khó có thể diễn tả ra thành lời. Ví dụ,
chúng ta có thể cảm nhận được ngay một người đang “xịu mặt”, trước khi dùng suy
nghĩ phát hiện rằng có điều gì đó không ổn đang xảy ra nơi người ấy (Lewicki,
1986).
Các ý nghĩa có được thông
qua sự trải nghiệm trực tiếp thường mạnh hơn rất nhiều so với các ý nghĩa có
được qua tư duy nhận thức. Trong một mối quan hệ, trải nghiệm được yêu thương
là một cảm nhận rất phức tạp mà các suy nghĩ hợp lý hoặc các phát biểu thành
lời khó có thể chuyển tải được hết ý nghĩa. Thông qua sự tương tác với mẹ, đứa
trẻ nhũ nhi có thể thông báo cho mẹ nó biết rằng người mẹ đã thấu hiểu nó hay
không. Điều này không có nghĩa là đứa trẻ đã có được một “khái niệm” về sự thấu
hiểu. Thay vào đó, đứa trẻ đã cảm nhận trực tiếp cái cách thức tương tác hài
hòa, hiểu nhau giữa nó và mẹ nó. (Stern, 1985)
Gendlin (1964; 1969) tin
rằng trải nghiệm có tính phức tạp hơn tư duy hợp lý và sự diễn đạt bằng lời.
Chính trải nghiệm mới là nguồn lực cho sự sáng tạo. Eistein đã có được cảm nhận
về thuyết tương đối trước khi ông có thể phát biểu lý thuyết ấy bằng lời nói.
Chúng ta cũng có thể cảm nhận được có gì đó không ổn trong một mối quan hệ
trước khi có thể dùng lời để nói rõ đó là điều gì.
Trong nội tâm, chúng ta
cũng có một trực cảm (felt sense) về cách thức mà cuộc sống của chúng ta đang
diễn ra và cách thức mà các tình huống sống đã xảy đến với chúng ta. Cũng theo
Gendlin, chính ở bình diện các cảm thức mà những thay đổi có tính trị liệu mới
có thể xảy ra. Việc trị liệu tâm lý phải dẫn đến một sự chuyển đổi về cách thức
mà chúng ta liên hệ với thế giới bên ngoài, sao cho sự biến đổi ấy có thể được
cảm nhận trực tiếp thay vì chỉ là sự thay đổi về mặt lý trì.
Cảm xúc (feelings)
Nhà trị liệu thân chủ
trọng tâm được biết đến như những người thường hay khuyến khích thân chủ hãy
“tin tưởng vào cảm xúc”, hoặc hãy “chạm đến cảm xúc”... Cảm xúc, theo quan điểm
thân chủ trọng tâm, còn nhiều hơn cả tình cảm. Trong khi ta cảm thấy giận hoặc
buồn, thì thực sự ta đang cảm nhận những khuôn mẫu ý nghĩa phức tạp hơn thế. Để
nhận biết được những cảm xúc, cùng lúc ta phải nhận biết được những tình cảm
nào mà ta đang có, đồng thời nhận biết được kiểu cách liên hệ giữa ta và thế
giới bên ngòai đang xảy ra như thế nào. Ví dụ ta có thể “cảm thấy có điều gì đó
bất ổn trong cuộc sống” và “cảm thấy cuộc sống của ta đang bị mất thăng bằng”.
Khi nói “hãy tin tưởng vào cuộc sống của bạn” thì có nghĩa là hãy lắng nghe cảm
xúc như một nguồn thông tin quan trọng, chứ không có nghĩa là hãy làm theo
những gì chúng bảo.
Một nữ thân chủ nói với
nhà trị liệu rằng cô “cảm thấy” chồng cô không yêu thương cô nữa. Về mặt tâm
lý, khi cô nghĩ và nói ra điều này, cô đã không thể dẫn ra một lý lẽ nào để
giải thích được cảm xúc ấy. Người chồng nói anh ta vẫn yêu cô, nhà trị liệu thì
kết luận rằng cô đã nhận định sai hoàn cảnh hiện tại do bởi cô đã có những vấn
đề trong mối quan hệ với cha cô hồi còn bé. Sau đó, người nữ thân chủ này đã
tìm đến một nhà trị liệu khác, và chỉ sau hơn một tháng, chồng cô tuyên bố rời
bỏ cô. Anh ta thừa nhận trong nhiều tháng qua đã ngoại tình và yêu một phụ nữ
khác. Rõ ràng những cảm xúc của thân chủ trong trường hợp này chủ yếu đã dựa
vào những thay đổi trong cách thức cư xử của người chồng đối với cô, những thay
đổi tinh tế đến mức nếu chỉ sử dụng lý trí cô khó có thể nhận dạng được.
Tuy nhiên, cảm xúc không
luôn luôn lúc nào cũng đúng và đôi khi có thể dẫn đến việc thấy một điều gì đó
“có vẻ đúng” dù thực tế không đúng như vậy. Như trường hợp thân chủ nêu trên,
cảm nhận không ổn về người chồng cũng có thể là đã không đúng. Tuy nhiên, nếu
cô vẫn tin vào cảm xúc của mình thì cô có thể tiếp tục kiểm định lại dựa trên
những trải nghiệm mà cô đã có được từ trong cuộc sống chung với chồng mình.
Nhà trị liệu thân chủ
trọng tâm tin rằng những người có chức năng sống đầy đủ có thể sử dụng tất cả
những gì mình có. Họ có thể vận dụng cả khả năng tư duy hợp lý và giải quyết
vấn đề, lẫn khả năng sử dụng những cảm nhận theo kinh nghiệm về những gì có ý
nghĩa riêng đối với bản ngã của họ. Cả hai nguồn thông tin đều có thể sai lầm:
việc thực hiện chức năng sống đầy đủ cần phải xem xét cả hai nguồn thông tin
ấy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét