BS NGUYỄN MINH TIẾN
Cái ngã như một tiến
trình (Self as Process)
Đối với học thuyết thân chủ trọng tâm,
cái ngã không phải là một sự vật hoặc một tác nhân ở bên trong con người, mà là
“một trải nghiệm về cính mình như một con người trọn vẹn ở một thời khắc nhất
định nào đó”. Cùng lúc ấy, chúng ta định hình nên những ý niệm về chính chúng
ta nhằm giúp chúng ta tổ chức lại những gì mình hiểu biết về thực tế cuộc sống,
theo cùng một cách thức mà ta dùng để tạo nên những ý niệm về những sự vật
khác.
Cái “ý niệm về bản thân” này (self-concept) là một cấu trúc trong sự hiểu
biết mà chúng ta sử dụng như một “tấm bản đồ” để giúp chúng ta “lèo lái” thực
tế (Shlien, 1970). Nó có tính chất đa chiều kích, nhưng có hai khía cạnh quan
trọng là “cái ngã thực” và “cái ngã lý tưởng”. Cái ngã thực (real self-concept)
là hình ảnh của chúng ta về một con người mà ta nghĩ ta thực sự đang là; còn
cái ngã lý tưởng (ideal self-concept) là hình ảnh của chúng ta về một con người
mà ta nghĩ ta nên là. Một người có chức năng sống đầy đủ sẽ giữ lấy hai khía
cạnh trên của cái ngã một cách chừng mực. Sẽ là không lành mạnh nếu chấp giữ
vào một cái ngã quá cứng nhắc, vì cái ngã sẽ luôn trưởng thành và thay đổi.
Chúng ta sẽ phải điều chỉnh lại ý niệm về cái ngã của mình để phù hợp với những
trải nghiệm sống mới, cũng như chúng ta cũng phải sửa đổi các ý niệm khác sao
cho phù hợp với những trải nghiệm sống của bản thân.
Lý thuyết về sự phát triển
Mặc dù Rogers có trình bày
một số quan điểm về sự phát triển tâm lý, nói chung trường phái thân chủ trọng
tâm vẫn không nhấn mạnh vào điều này, tuy nó vẫn hàm chứa một quan điểm về sự
phát triển. Đầu tiên, một đứa trẻ được sinh ra đã là một sinh vật năng động,
hiếu kỳ, thích khám phá, quan tâm đến việc học hỏi từ thế giới xung quanh và có
một mối quan tâm nội tại về sự phát triển những khả năng của chính mình. Đứa
trẻ sẽ lắng nghe và học hỏi từ tất cả những trải nghiệm sống của nó: từ cha mẹ,
từ các trẻ đồng trang lứa, bà con, hàng xóm, thầy cô và từ những câu chuyện
kể... Trẻ đặc biệt quan tâm đến việc học hỏi từ kết quả của những hoạt động mà
trẻ tự mình cố gắng thực hiện và khám phá.
Như một cơ thể đang tăng
trưởng, đứa trẻ sẽ không “hoàn tất” con đường đi của mình trong vài năm đầu
đời. Lý thuyết phân tâm xem những trải nghiệm sống trong những năm đầu đời là
có tính “nền tảng”, có vai trò định hình ban đầu và ảnh hưởng đến tất cả các
cấu trúc nhân cách về sau. Trường phái thân chủ trọng tâm lại xem con người vẫn
liên tục phát triển. Và khi phát triển, con người mang những gì mà mình học
được trước đó vận dụng vào việc hiểu chính bản thân mình và thế giới xung
quanh. Quan điểm này tương đồng với Piaget hơn là với Freud. Theo quan điểm của
Piaget, sự phát triển là một tiến trình trải dài trong đó các giai đoạn sau sẽ
phát huy và tổ chức lại những gì đã xảy ra trong các giai đoạn trước. Các ý
tưởng và trải nghiệm ban đầu vẫn được bảo lưu nhưng được kết hợp với các cấu
trúc thực tại mới hơn, tinh tế hơn, sao cho những dạng thức học tập lúc ban đầu
sẽ bị đổi khác đi.
Freud xem sự phát triển có
mô hình dưới dạng một kim tự tháp, trong đó những gì học tập được lúc đầu đời
sẽ tập trung ở phần đáy, còn những gì đến sau sẽ ở những phần trên cao hơn. Học
thuyết thân chủ trọng tâm xem sự phát triển giống như một bộ những “chiếc hộp
Trung Hoa”, trong đó thuở ấu thơ được ví như chiếc hộp nhỏ nhất nằm ở bên trong
cùng, các giai đoạn sau của đời sống thì giống như những chiếc hộp lớn hơn lần
lượt lồng vào chiếc hộp ban đầu, và cứ thế, cứ thế... Mỗi một trải nghiệm sống
mới tạo thêm một khung sườn rộng hơn, kiên cố hơn so với những trải nghiệm
trước đó và giúp cho cá nhân đó thống hợp tốt hơn.
Ngòai ra, con người còn có
khuynh hướng tìm đến sự khám phá và đối đầu với những thử thách hơn là tránh né
những đau khổ và hụt hẫng. Các lý thuyết gia tâm động học cho rằng “con người
có một khuynh hướng phổ biến là muốn tránh sự đau khổ” (Strupp & Binder,
1984), và trẻ em thường có khuynh hướng muốn chối bỏ, tránh né và dồn nén cảm
xúc và những trải nghiệm đau thương.
Trái lại, Bohart (1995) lại nhận thấy một
cách đáng ngạc nhiên về sự cam đảm của các thân chủ của ông khi họ thường xuyên
phải đối đầu với những nỗi đau, thách thức và luôn cố gắng làm chủ cuộc sống
của họ. Ngay cả trẻ em cũng thường xuyên lập lại những cuộc đối đầu với các sự
kiện đau thương và những trải nghiệm gây hụt hẫng để cố gắng làm chủ lấy chúng.
Con người chỉ tránh né đau khổ và hụt hẫng khi họ cảm thấy mình đã mất hết năng
lực để giải quyết chúng (Bandura, 1986), như trường hợp những trải nghiệm vượt
quá sức chịu đựng ở những trẻ em bị xâm hại chẳng hạn.
Khi nào một người có
“chức năng sống đầy đủ” (fully functioning)
Rogers và cs. đã phát
triển một thang đo lường những thay đổi trong trị liệu, phân mức độ từ chỗ gọi
là “rối loạn chức năng” (dysfunctional) cho đến “có chức năng sống đầy đủ”
(fully functional).
Theo Rogers, ở đầu thứ nhất của thang đo biểu thị một chức
năng tâm lý cứng nhắc, kiên định, chuyên biệt hóa kém, vô cảm, lạnh lùng; còn ở
đầu thứ hai của thang đo là biểu thị cho một chức năng tâm lý được đặc trưng
bởi sự chấp nhận thử thách, uyển chuyển và các phản ứng có tính chuyên biệt hóa
cao, bởi sự trải nghiệm tức thời những cảm xúc của bản thân và trong thâm sâu
chấp nhận những cảm xúc ấy như là của chính mình (Rogers, 1961b).
Khi con người
có chức năng sống đầy đủ, họ sẽ có lối sống mềm dẻo, uyển chuyển: xử lý một
cách cân nhắc các sơ cấu nhận thức, kiểm định chúng dựa trên các trải nghiệm,
mở lòng chấp nhận các cảm xúc, lắng nghe và học hỏi từ các phản hồi, đối thoại
với chính mình và với những người xung quanh, cảm thấy mình có thể tự định
hướng cho cuộc đời mình. Ở giữa thang đo là biểu thị cho các chức năng sống ở
nhiều mức độ khác nhau.
Chức năng sống đầy đủ có ý
nghĩa đơn giản là một con người ở mỗi thời điểm đều vận hành như một quá trình
đang tiến triển. Điều này không hoàn toàn có nghĩa là người đó phải hài lòng,
mãn nguyện và hạnh phúc (Rogers, 1961a). Một con người sống đầy đủ cũng không
có nghĩa là phải luôn “vận hành một cách tối ưu”. Ngay cả khi có chức năng sống
đầy đủ, con người vẫn có lúc cảm thấy bế tắc, mất năng lực, không hiệu quả và
hụt hẫng. Tuy nhiên, ngay cả những lúc như thế, người ấy vẫn tiếp tục đấu tranh
với vấn đề khó khăn của mình, cố gắng học hỏi và tiếp tục đi tới.
Mở rộng quan điểm “nhân vị trọng tâm” sang các lĩnh vực gia đình
và nhóm
Quan điểm “nhân vị trọng
tâm” đã được mở rộng và áp dụng sang cả lĩnh vực trị liệu gia đình (Lietaer,
1990; Levant & Shlien, 1984) và các nhóm (O’Hara & Wood, 1983). Các
nguyên lý chung cũng vẫn tương tự như nhau: những gia đình và nhóm có chức năng
sống đầy đủ là những tập thể người có sự giao tiếp cởi mở sao cho tất cả các
tiếng nói đều được nghe thấy. Các quyết định được hình thành thông qua các quá
trình thảo luận hơn là chỉ máy móc áp dụng các luật lệ, quan điểm hoặc những
điều “nên, không nên”. Việc đối thọai và giao tiếp cởi mở có thể giúp huy động
được “sự thông thái tập thể”. Trái lại, các nhóm và gia đình có sự trở ngại
trong đối thọai thì các thành viên sẽ dễ duy trì một hệ thống các luật lệ, các
quan điểm cứng nhắc và dễ có khuynh hướng dẫn đến rối lọan chức năng.
Bệnh lý rối lọan chức năng
Từ quan điểm thân chủ
trọng tâm, một hành vi bất thường có thể phát sinh khi một con người không có
khả năng vận hành theo một cách thức liên tục phát triển. Các vấn đề tâm lý
không phải là do sự sai lầm về niềm tin hoặc nhận thức, và cũng không phải ở
chỗ những hành vi ấy có tính không thích nghi hoặc không hiệu quả. Khi con
người đương đầu với các thách thức trong cuộc sống, họ cũng có lúc nhận thức
sai, ứng xử không thỏa đáng hoặc có những niềm tin lệch lạc. Tuy nhiên, sự rối
loạn chức năng chỉ xảy ra khi chúng ta “thất bại trong việc học” từ những thông
tin phản hồi và vì thế vẫn bị vướng mắc vào những nhận thức sai hoặc những hành
vi không thỏa đáng ấy. Sự rối loạn chức năng chính là sự thất bại trong việc
học hỏi và thay đổi.
Theo quan điểm thân chủ trọng tâm, có ba cách giải thích
liên quan đến việc vì sao sự thất bại này xảy ra, đó là sự thiếu hài hòa
(incongruence), không thể tồn tại như một tiến trình (failure to be in process)
và khó khăn trong việc xử lý thông tin.
· Thiếu hài hòa
Quan điểm phổ biến nhất về sự rối lọan chức năng theo trường phái thân chủ trọng tâm là: hành vi bất thường phát sinh do sự trái ngược, mâu thuẫn giữa một bên là ý niệm về cái ngã và bên kia là những trải nghiệm sống. Ví dụ, Janet là một sinh viên giỏi ở trường đại học. Trong hình ảnh về bản thân (self-image), cô muốn mình sẽ trở thành một bác sĩ. Tuy nhiên, trong các giờ học môn sinh và môn hóa cô lại có những trải nghiệm rất xa lạ và không như ý muốn, và sự mâu thuẫn này đã khiến cho cô phiền lòng.
Tuy nhiên, không phải sự
mâu thuẫn này làm nên tình trạng rối lọan chức năng, mà là do ở cách thức đương
sự đáp ứng và cố gắng giải quyết sự trái ngược này. Nếu các cấu trúc trong nhận
thức được đương sự xử lý một cách chừng mực thì người ấy sẽ có khả năng thống
hợp lại các khía cạnh có tính đối lập nhau bên trong cái ngã của mình, và chính
từ khả năng thống hợp này mà sự sáng tạo mới có thể được nảy sinh. Nhưng nếu
các khía cạnh đối lập nhau trong ý niệm về cái ngã vẫn còn được lưu giữ một
cách cứng nhắc, tiến trình thống nhất và tổng hợp này sẽ bị bế tắc.
Con người thường học cách
bảo lưu các thành phần của cái ngã một cách cứng nhắc do bởi cha mẹ họ, các
giáo viên và nền văn hóa của họ áp dụng những “tiêu chuẩn đánh giá” đối với họ.
Đó là, họ chỉ cảm thấy mình có giá trị khi tuân theo những chuẩn mực và giá trị
của người khác. Điều này khiến cho họ dễ chấp nhận một cách cứng nhắc những
“điều nên làm” khi xem xét những cách thức sống mà họ được người khác trông
đợi. Một khi có sự thiếu hài hòa giữa những điều răn cứng nhắc và những trải
nghiệm thật sự của bản thân, họ sẽ không thể thách thức những điều răn ấy, và
vì thế họ sẽ có khuynh hướng đáp ứng lại bằng cách chối bỏ những trải nghiệm
thực của mình hoặc tìm cách diễn giải chúng khác đi. Khi không còn khả năng
lắng nghe những trải nghiệm của chính mình thì họ đã lấy đi sức mạnh của chúng.
Để rồi sau đó, họ chỉ có thể chủ yếu dựa vào những “điều răn” để hướng dẫn cho
sự chọn lựa của mình. Khi nỗi lo âu và tính không hài hòa không được giải
quyết, đương sự sẽ dần dần cảm thấy bất lực và trở nên trầm uất.
Janet, trong ví dụ trên,
qua nhiều năm đã được “lập trình” bởi chính cô, bởi cha mẹ cô và bởi các giáo
viên của cô, để trở thành một bác sĩ. Để theo đuổi chương trình này, cô đã phải
bỏ qua những cảm xúc không phù hợp khi tham dự những lớp học môn sinh và môn
hóa. Điều này dường như cũng đã ảnh hưởng lên nhân cách của cô, khiến cho bạn
bè cũng cảm nhận cô như một người xa cách và hay phòng vệ. Nhưng đến một ngày
kia, Janet đến lớp với một vẻ hoàn toàn khác: cởi mở, nhiệt tình và thân thiện.
Cô bảo với mọi người rằng cô đã có một quyết định quan trọng của riêng mình: cô
sẽ thay đổi chuyên ngành học của mình sang lĩnh vực nghệ thuật. Cô bộc bạch
rằng sau cùng cô đã bắt đầu lắng nghe các trải nghiệm của mình và nhận thấy
rằng thật tâm cô không muốn trở thành một bác sĩ. Chính việc tin tưởng vào trải
nghiệm của chính mình đã cho phép cô tự mở ra những con đường đi mới.
Vấn đề của Janet là ở chỗ
cô đã cứng nhắc chấp giữ một niềm tin rằng mình phải trở thành một bác sĩ. Khi
cô xem xét niềm tin ấy một cách đúng mực và đánh giá nó dựa trên chính những
trải nghiệm của mình, cô đã chọn quyết định thay đổi ngành học. Tuy nhiên, cô
cũng có thể đi theo hướng ngược lại: đó là tiếp tục chọn việc học để trở thành
một bác sĩ ngay cả khi cô không thích học sinh và học hóa. Và điều quan trọng ở
đây là Janet đã đặt ra các câu hỏi và thách thức các cấu trúc nhận thức
của mình.
Sự thiếu hài hòa có thể
xảy ra dưới nhiều hình thức. Một số người đã khái quát hóa các ý niệm tiêu cực
về cái ngã và phán xét chúng một cách khắc khe về mọi lĩnh vực. Điều này đã dẫn
đến các vấn đề nghiêm trọng, ví dụ như những hành vi chống đối xã hội và rối
loạn nhân cách. Một số người khác có thể cảm thấy sự thiếu hài hòa chỉ trong
một số lĩnh vực chuyên biệt nào đó, ví dụ không thể chấp nhận được cản xúc giận
dữ chẳng hạn.
Gần đây, Speierer (1990) đã cố gắng chuyên biệt hóa các lọai
thiếu hài hòa khác nhau trong các lọai rối lọan tâm lý khác nhau. Ông cho rằng
các thân chủ bị trầm cảm chủ yếu là do sự chấp giữ những ý niệm về cái ngã quá
hoàn hảo, trong khi đó những bệnh nhân hysterie lại chấp giữ cứng nhắc và thái
quá những khía cạnh tích cực trong hình ảnh về bản thân khi họ cố gắng xuất
hiện trước người khác theo một cách thức nhất định. Tuy nhiên, các nhà trị liệu
theo trường phái thân chủ trọng tâm tin rằng mỗi cá nhân đều có tính độc đáo và
không thể có một quy luật bất biến nào có thể quyết định lọai thiếu hài hòa nào
sẽ gây nên lọai rối loạn nào.
· Không thể tồn tại như một một tiến trình
Quan điểm này có thể xem như một sự mở rộng của ý tưởng về sự thiếu hài hòa. Khi tư tưởng của Rogers thay đổi, ông ngày càng tập trung nhiều hơn vào ý tưởng cho rằng sự rối lọan chức năng có liên quan đến mức độ mà con người không tồn tại (không sống) như một tiến trình.
Gendlin cũng cho rằng tâm
bệnh bắt nguồn từ việc thất bại của con người không thể sống như một tiến
trình. Những người trải qua các vấn đề về tâm lý là những người “thiếu tập
trung” (Gendlin, 1969). Đó là vì họ đã không chú tâm vào “dòng chảy” của những
trải nghiệm theo một cách thức có thể giải quyết các vấn đề của họ một cách
sáng tạo. Thay vì lắng nghe một cách thấu cảm nội tâm của mình, họ lại khắc khe
phê phán các cảm xúc và phản ứng của chính họ, bằng cách tự “lên lớp” bản thân,
phân tích bản thân hoặc cố gắng tự “thiết kế lại” bản thân (Gendlin, 1964).
Trong những trường hợp nghiêm trọng, như tâm thần phân liệt chẳng hạn (Gendlin,
1967), người bệnh có thể cảm thấy đời sống nội tâm của chính mình quá hỗn độn,
quá “bệnh”, khiến sau cùng họ cũng quay mặt đi với chính nội tâm của họ và cho
rằng chẳng có gì đáng tin ở đó cả!
· Các quan điểm về xử lý thông tin
Vào năm 1974, Wexler và Rice đã xuất bản một quyển sách trình bày về một số quan điểm về vấn đề xử lý thông tin trong liệu pháp thân chủ trọng tâm. Ý tưởng của Rogers và Gendlin đã được viết lại bằng ngôn ngữ của tâm lý học nhận thức.
Mỗi cá nhân con người đã
phát triển nên những sơ cấu (schemata) trong nhận thức của mình để tổ chức lại
các nguồn thông tin từ thế giới bên ngoài. Việc một người có chức năng sống đầy
đủ bao gồm khả năng đồng hóa (assimilation) liên tục các thông tin này vào
trong các sơ cấu, tạo nên những cấu trúc hiểu biết chuyên biệt hơn, thống hợp
hơn. Tâm bệnh được xem là bắt nguồn từ những hệ thống các sơ cấu kém chuyên
biệt và có tính cứng nhắc, khiến con người mất khả năng thống nhập các nguồn
thông tin mới.
Một tiến trình quan trọng trong sự tạo lập các cấu trúc hiểu
biết chuyên biệt hơn, thống hợp hơn đó là sự “chú tâm” (attention). Nếu con
người thất bại trong việc chú tâm một cách hiệu quả vào các nguồn thông tin mới
thì sẽ dẫn đến sự tồn tại một cách kiên định của những cấu trúc hiểu biết cũ
(Anderson, 1974). Toukmanian (1990) cũng đã chỉ rõ rằng những người có vấn đề
thường thất bại trong việc gỡ bỏ các suy nghĩ có trước của họ, và vì thế không
thể chú ý đến các nguồn thông tin mới rất phong phú. Ngoài ra, họ cũng thất bại
trong việc xây dựng những giả thuyết để họ có thể chọn lựa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét