NHỮNG VẤN ĐỀ TRONG CHẨN ĐOÁN VÀ TRỊ LIỆU
BS
NGUYỄN MINH TIẾN Dịch và tổng hợp
Rối loạn nhân cách
(Personality Disorders) là một trong những chủ đề lớn của tâm bệnh học và vẫn
luôn là một đề tài còn được tiếp tục nghiên cứu. Từ khi có các tiêu chí chẩn
đoán rõ rệt hơn trong quyển Sổ tay Chẩn đoán và Thống kê các Bệnh Tâm thần lần
thứ 3 (DSM III: Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders III) của
Hội Tâm thần học Hoa Kỳ năm 1980, các thầy thuốc chuyên khoa tâm bệnh đã có thêm
nhiều công cụ để chẩn đoán và từ đó có thêm các định hướng tốt hơn cho việc
điều trị.
Từ đó đến nay đã có thêm nhiều nghiên cứu để cải tiến và mở rộng các
phương pháp tiếp cận những rối loạn này, nhưng DSM III vẫn đánh dấu một cột mốc
quan trọng trong việc hiểu biết và giúp đỡ những bệnh nhân bị rối loạn nhân
cách...
NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ CHẨN ĐOÁN
Một trong những cải tiến
quan trọng nhất của DSM III là việc xây dựng một hệ thống chẩn đoán đa trục (multi-axial),
trong đó có một trục chẩn đoán riêng biệt dành cho các rối loạn nhân cách.
Trước khi có DSM III, các rối loạn nhân cách ít được đầu tư nghiên cứu (ngoại
trừ rối loạn nhân cách chống đối xã hội – antisocial
personality disorder). Ngày nay, một số các mẫu phỏng vấn theo kiểu “bán
cấu trúc” (semi-structured) đã được thiết kế nhằm giúp các thầy thuốc
lâm sàng có thể khám, chẩn đoán và nghiên cứu các rối loạn nhân cách. Một hệ
thống chẩn đoán đa trục vẫn giữ được tính xác thực với thực tế lâm sàng và còn
cung cấp thêm những thông tin hữu dụng cho việc chẩn đoán và lập kế hoạch trị
liệu.
Cải tiến quan trọng thứ hai
của DSM III là hệ thống các tiêu chí chẩn đoán rõ ràng đối với các loại rối
loạn nhân cách. Trước khi có DSM III, ít có sự tin cậy lẫn nhau giữa các thầy
thuốc trong việc xác định có hay không có rối loạn nhân cách trên các ca lâm
sàng. Khi có các tiêu chí chẩn đoán rõ ràng, việc khảo sát một cách có hệ thống
các triệu chứng đặc hiệu của từng rói loạn đã trở nên thuận lợi hơn và độ tin
cậy cũng gia tăng trong chẩn đoán các rối loạn nhân cách.
Dù vậy, chẩn đoán các rối
loạn nhân cách vẫn là một công việc khó khăn và có lẽ có độ tin cậy ít hơn so
với việc chẩn đoán các rối loạn ở trục I. Ngoài ra, việc trị liệu các rối loạn
nhân cách thường khó được xác lập tốt vì việc trị liệu còn tùy thuộc nhiều vào
những “nghệ thuật lâm sàng” hơn là một khoa học lâm sàng. Tuy nhiên, chẩn đoán
rối loạn nhân cách là điều mà các thầy thuốc tâm bệnh phải thực hiện mỗi ngày
và việc nhận thức rõ các vấn đề trong chẩn đoán và trị liệu các rối loạn nhân
cách có thể sẽ cải thiện việc thực hành lâm sàng của người thầy thuốc.
Những vấn đề trong chẩn
đoán các rối loạn nhân cách
Theo DSM III, các đặc trưng
nhân cách được định nghĩa là “... Những
phương thức mà một người thường sử dụng để nhận biết, liên hệ và suy nghĩ về
bản thân và môi trường sống xung quanh, được thể hiện trong những tình huống xã
hội và cá nhân khác nhau. Chỉ khi các đặc trưng nhân cách này trở nên cứng
nhắc, không linh hoạt và kém thích nghi, hoặc gây ra những khiếm khuyết quan
trọng trong quan hệ xã hội và hoạt động nghề nghiệp, hoặc khiến đương sự bị đau
khổ... thì mới gọi là rối loạn nhân cách. Biểu hiện của rối loạn nhân cách nói
chung có thể được nhận biết từ tuổi vị thành niên hoặc sớm hơn, và sau đó tiếp
diễn suốt đời, mặc dù rằng các biểu hiện này thường giảm bớt vào tuổi trung
niên hoặc tuổi già”.
Mặc dù định nghĩa này cố
gắng cụ thể hóa khái niệm vè rối loạn nhân cách, nhưng nó vẫn không xác lập
ranh giới rõ rệt giữa các rối loạn nhân cách với tình trạng nhân cách bình
thường, giữa các rối loạn nhân cách với các rối loạn ở trục I, giữa các loại
rối loạn nhân cách khác nhau, hoặc giữa các rối loạn nhân cách với các rối loạn
thích nghi (adjustment disorders).
Định nghĩa trên cũng cho thấy rằng
chỉ khi các đặc trưng nhân cách trở nên cứng nhắc và không thích nghi, hoặc gây
nên sự khiếm khuyết và đau khổ chủ quan cho đương sự thì mới được xem là rối
loạn nhân cách. Nhưng định nghĩa trên không cho thấy rõ mức độ cứng nhắc và
không thích nghi như thế nào hoặc mức độ khiếm khuyết và đau khổ đến mức độ nào
thì mới được gọi là rối loạn nhân cách.
Dường như rằng, các đặc trưng nhân cách
mà chúng ta đang bàn đến ở đây được phân bố theo một liên thể (continuum)
đi từ mức độ nhân cách bình thường cho đến mức độ nhân cách bệnh lý, và việc
phân chia các mức độ khác nhau trên liên thể này còn tùy thuộc nhiều vào kiến
thức cơ bản và kinh nghiệm lâm sàng của từng thầy thuốc. Sự thiếu khả năng xác
định một ranh giới rõ rệt giữa trạng thái nhân cách bình thường và các tình
trạng rối loạn nhân cách làm giảm độ tin cậy trong việc chẩn đoán các rối loạn
nhân cách và cả trong việc trị liệu các rối loạn ấy.
Đứng trước một trường hợp
lâm sàng cụ thể nào đó, có thể một thầy thuốc này chẩn đoán là rối loạn nhân
cách và người bệnh ấy cần được trị liệu, nhưng một thầy thuốc khác lại có thể cho
rằng những triệu chứng mà người bệnh thể hiện có thể vẫn còn nằm trong mức giới
hạn bình thường. Bằng cách cung cấp những tiêu chí chẩn đoán cho các rối loạn
nhân cách, DSM III đã làm tăng độ tin cậy cho các chẩn đoán này. Tuy nhiên,
trong việc đánh giá các rối loạn nhân cách, phần nhiều những kiểu cách suy nghĩ
và cảm xúc của người bệnh phải được người thầy thuốc suy nghiệm ra vì chúng ít
khi được biểu hiện trực tiếp và trọn vẹn trong hành vi của người bệnh.
Một vấn đề khác nẩy sinh từ
định nghĩa của DSM III về rối loạn nhân cách là những biểu hiẹn đặc thù của các
rối loạn này phải đưọc thể hiện trong nhiều tình huống xã hội và bản thân quan
trọng. Nếu đương sự chỉ thể hiện nhân cách bệnh lý nhưng chỉ trong một số hành
vi thôi thì cũng chưa gọi là rối loạn nhân cách.
Thí dụ một tân binh mới vào
quân trường có biểu hiện hành vi theo kiểu “thụ động – gây hấn” (passive-aggressive)
để phản ứng lại những yêu cầu quá nghiêm khắc của thượng cấp. Nếu những hành vi
thụ động – gây hấn ấy không phải là nét thể hiện chủ yếu của đương sự khi sống
ngoài quân trường thì hành vi hiện tại của anh ta chỉ nên được xem là một rối
loạn thích nghi có các vấn đề ứng xử chứ chưa nên xem là rối loạn nhân cách.
Một điều dễ gây nhầm lẫn thứ
ba là các đặc trưng của rối loạn nhân cách phải có diễn tiến kéo dài chứ không
phải chỉ giới hạn trong từng cơn ngắn như nhiều loại rối loạn tâm thần khác.
Mặc dù quy định này khá rõ rệt trên lý thuyết, nhưng trên thực tế lâm sàng
người ta vẫn thường gặp khó khăn trong việc xác định những vấn đề hiện tại của
bệnh nhân đã tồn tại trong thời gian dài hay chỉ là một phần của các rối loạn
cấp ở trục I.
Điều này đặc biệt hay gặp vì nhiều loại rối loạn ở trục I (ví dụ:
trầm cảm) có thể khiến cho bệnh nhân bị lệch lạc nhận thức khi hồi tưởng về quá
khứ. Một người bệnh trầm cảm có thể sử dụng một “lăng kính” bi quan trong hiện
tại để xem xét những trải nghiệm trước đó trong quá khứ và có thể mô tả cả cuộc
đời từ trước đến nay của mình là tồi tệ, dù rằng thực tế không phải như vậy.
Định nghĩa của DSM III cũng
cho phép chẩn đoán rối loạn nhân cách khi các đặc trưng nhân cách dẫn đến sự
khiếm khuyết hoặc đau khổ đáng kể cho đương sự. Tuy nhiên, một số bệnh nhân có
biểu hiện rối loạn nhân cách không có khả năng tự nhận biết được ý nghĩa của
những hành vi của mình và không nhận ra được những thiệt hại mà họ gây ra cho
đời sống của bản thân cũng như cho đời sống của những người khác xung quanh họ.
Trong các rối loạn ở trục I, các triệu chứng bệnh lý có thể được người bệnh cảm
nghiệm như một trạng thái “bất tương hợp với cái Tôi” (ego-dystonic).
Bệnh nhân có thể nhận thấy những rối loạn về cảm xúc và hành vi của mình như là
những “hiện tượng lạ”, “không phải của ta”. Nhưng trong một số loại rối loạn
nhân cách, bệnh nhân lại có thể có thái độ xem các đặc trưng nhân cách ấy là có
tính chất “tương hợp với cái Tôi” (ego-syntonic) và phù hợp với sự xác
định bản ngã của chính mình. Chính vì thế việc chẩn đoán sẽ gặp nhiều khó khăn
nếu người bệnh thông báo những biểu hiện ấy cho thầy thuốc biết.
Tóm lại, có bốn lý do gây ra
những khó khăn đặc biệt trong việc chẩn đoán các rối loạn nhân cách:
1.
Khó xác định một ranh
giới rõ rệt giữa các rối loạn nhân cách với trạng thái nhân cách bình thường
2.
Khó xác lập được ranh
giới giữa các rối loạn nhân cách và những rối loạn ở trục I
3.
Khó xác lập được ranh
giới giữa các rối loạn nhân cách và các rối loạn thích nghi
4.
Người bệnh bị rối loạn
nhân cách ít có khả năng báo cáo chính xác các vấn đề về nhân cách của họ khi
so sánh với bệnh nhân bị các rối loạn ở trục I.
Vì những lý do trên, việc
chẩn đoán các rối loạn nhân cách thường cần áp dụng thêm nhiều phương pháp mà
đôi khi có thể không cần thiết trong khi chẩn đoán các rối loạn ở trục I.
Trước tiên, cần phải có thêm
những người cung cấp thông tin khác đã biết về người bệnh trong một thời gian dài.
Việc này giúp xác định xem những hành vi của người bệnh có thực sự là đã diễn
tiến kéo dài và đã xảy ra trong nhiều hoàn cảnh sống khác nhau hay không. Dĩ
nhiên, người thầy thuốc cũng cần phải ý thức rõ rằng những người khai bệnh như
thế cũng có thể có cách nhìn riêng của họ và thông tin do họ cung cấp cũng có
thể là sự thật đã bị bóp méo.
Một phương pháp hữu ích khác
trong chẩn đoán các rối loạn nhân cách là thực hiện những cuộc phỏng vấn đánh
giá theo thời gian (hay còn gọi là “theo chiều dọc”: longitudinal evaluative interviews).
Việc này giúp xác định xem tình trạng rối loạn nhân cách có phải là thứ phát
sau một rối loạn ở trục I hay không, đồng thời giúp cung cấp thêm các dữ liệu
về hành vi của người bệnh khi được thể hiện trong nhiều tình huống xã hội khác
nhau. Một bệnh nhân bị trầm cảm chủ yếu (major depression) có thể thỏa
các tiêu chí chẩn đoán của rối loạn nhân cách cưỡng chế (compulsive
personality disorder), nhưng sau một tháng có thể biểu hiện hoàn toàn khác
khi các triệu chứng trầm cảm không còn rõ rệt trên lâm sàng.
Chẩn đoán các rối loạn đa
dạng (đa rối loạn)
DSM III cho phép chẩn đoán
nhiều loại rối loạn nhân cách trên cùng một người bệnh nếu triệu chứng của bệnh
nhân đó thỏa các tiêu chí chẩn đoán của nhiều hơn một loại rối loạn nhân cách
chuyên biệt. Điều này cho thấy một thực tế rằng nhiều loại rối loạn nhân cách
theo DSM III có thể chồng lấp triệu chứng lên nhau và không có ranh giới rõ rệt
để tách biệt các rối loạn ấy.
Các kiểu nhân cách (personality
style) không có tính chất loại trừ lẫn nhau mà có xu hướng ít nhiều tương
tác qua lại với nhau. Thật vậy, một số rối loạn nhân cách theo DSM III cùng
chia sẻ chung một số tiết mục (item) trong tiêu chí chẩn đoán. Để giảm
bớt sự chồng lấp triệu chứng trong hệ thống chẩn đoán các rối loạn nhân cách,
cách duy nhất là phải giảm thiểu số lượng các rối loạn được xác định quá rõ
ràng. Việc cung cấp cho người thầy thuốc lâm sàng một sự lựa chọn trong hàng
chục loại rối loạn nhân cách khác nhau sẽ làm phong phú thêm cho hệ thống chẩn
đoán. Việc có những chẩn đoán đa dạng theo cách này sẽ bảo lưu rất nhiều thông
tin quan trọng về người bệnh.
Hệ thống chẩn đoán đa dạng
làm giảm bớt những cố gắng trong việc chẩn đoán phân biệt. Khi sử dụng hệ thống
chẩn đoán DSM III, người thầy thuốc không bị bắt buộc phải chẩn đoán xác định
xem người bệnh bị rối loạn nhân cách ranh giới (borderline personality
disorder) hay rối loạn nhân cách kịch tính (histrionic personality
disorder), mà chú ý xem bệnh nhân có thỏa tiêu chí cho từng loại rối loạn
này hay không và nếu thỏa cả hai thì chẩn đoán cả hai rối loạn cùng lúc.
Các vấn đề trong hệ thống
phân loại
Những vấn đề vừa được bàn
đến trên đây tất cả đều là do việc không thể có ranh giới rõ ràng trong việc
xác định từng loại rối loạn nhân cách riêng biệt. Chúng ta cũng biết rằng những
rối loạn này còn có thể hòa lẫn và khó phân biệt với những trạng thái nhân cách
bình thường, với các rối loạn thích nghi, với những rối loạn ở trục I và khó
phân biệt giữa chính những rối loạn nhân cách khác nhau. Việc thiếu những ranh
giới phân biệt rõ ràng phản ánh một số mặt hạn chế trong hệ thống phân loại các
rối loạn nhân cách của DSM III.
Việc phân loại bằng cách
định danh thườg được sử dụng trong y khoa và cả trong những việc làm của đời
sống thường ngày nhằm xác định tên gọi của các sự việc có sự phân định tính
chất rõ ràng, ví dụ: ghế là ghế, bàn là bàn... Tuy nhiên, một hệ thống phân
loại như thế sẽ bị gãy đổ ngay tại những đường ranh giới phân biệt hai thể loại
khác nhau nhưng tính chất của chúng có thể hòa lẫn với nhau. Chẳng hạn một vật
có thể có màu đỏ đối với người này nhưng lại có thể là màu cam đối với một
người khác.
Cho đến nay, hệ thống phân
loại rối loạn nhân cách theo DSM III đã dựa trên mô hình phân loại theo tên
bệnh. Điều này tự nó tạo ra các vấn đề do có sự thiếu những ranh giới phân định
rõ ràng giữa các rối loạn nhân cách khác nhau cũng như giữa các rối loạn nhân
cách và tình trạng nhân cách bình thường như ta đã thấy. Mô hình phân loại này
có tính chất thuận tiện và quen thuộc, nhưng điều quan trọng là phải nhận ra những
hạn chế của nó.
Các rối loạn nhân cách trong DSM III tốt nhất nên được quan
niệm bằng cách phân loại theo “kiểu nguyên mẫu” (prototypal model of
categorization). Theo phương pháp phân loại kiểu nguyên mẫu, các rối loạn
nhân cách là những tình trạng có tính chất hỗn hợp và chồng lấp. Phân loại theo
kiểu nguyên mẫu có nghĩa là bất cứ bệnh nhân nào khi được đặt cho một chẩn đoán
thì đó chỉ là một sự phỏng chừng của tình trạng nguyên mẫu hoặc lý tưởng của
chẩn đoán đó.
Cách thức phân loại này tạo nên một hệ thống chẩn đoán trong đó
các thể loại bệnh không được phân định rõ, đồng thời có tính chất chồng lấp và
không thuần nhất. Vì thế, một bệnh nhân được chẩn đoán là rối loạn nhân cách
ranh giới (borderline personality disorder) chỉ là sự phỏng định của một
bệnh nhân có rối loạn nhân cách ranh giới ở mức lý tưởng (hoặc nguyên mẫu), và
người bệnh này có thể ở mức “ranh giới của ranh giới” (the borderline of
borderline) ví dụ trường hợp những người có rối loạn nhân cách kịch tính (histrionic
personality disorder).
Các rối loạn ở trục II của
DSM III phù hợp với phương pháp phân loại kiểu nguyên mẫu nhiều hơn các rối
loạn ở trục I. Do vậy, các chẩn đoán đa dạng được khuyến khích nhiều hơn và
những tiêu chí chẩn đoán cũng có tính đa dạng hơn, chọn lọc hơn thay vì có tính
bắt buộc. Một bệnh nhân có thể cùng một lúc thỏa tiêu chí chẩn đoán của nhiều
loại rối loạn nhân cách khác nhau. Và những bệnh nhân cùng thỏa tiêu chí chẩn
đoán của một loại rối loạn nhân cách nào đó lại có thể hợp thành một nhóm không
thuần nhất về mặt triệu chứng.
Một hệ thống phân loại khác
dành cho các rối loạn nhân cách cũng đang được chú ý nghiên cứu trong tương
lai, đó là mô hình phân loại theo chiều kích (dimensional model). Trong
mô hình phân loại này, người thầy thuốc có thể xếp mức độ rối loạn của từng
bệnh nhân theo một số chiều kích khác nhau như: tính lệ thuộc (dependency),
tính cưỡng chế (compulsivity), tính ranh giới (borderlinearity)...
thay vì phân bệnh nhân vào những thể loại chẩn đoán. Hệ thống này còn nhiều bất
tiện và chưa quen thuộc với các thầy thuốc lâm sàng trong hiện tại.
Các rối loạn nhân cách
“hỗn hợp” và “khác”
DSM III cũng cung cấp thêm
hai thể loại là “hỗn hợp” (mixed) và “khác” (other) cho những
bệnh nhân thỏa các tiêu chí chẩn đoán rối loạn nhân cách, nhưng không khớp với
các tiêu chí đặc hiệu nào để có thể xếp loại vào một trong số các rối loạn nhân
cách đã được mô tả.
Rối loạn nhân cách “hỗn hợp”
nên được dùng để chỉ những bệnh nhân nào có các vấn đề về nhân cách kéo dài
nhưng không thỏa tiêu chí của bất kỳ loại rối loạn nhân cách chuyên biệt nào.
Nếu một bệnh nhân thỏa tiêu chí cùng lúc hai hoặc nhiều loại rối loạn nhân cách
thì người này không được xem là dạng “hỗn hợp”. Bệnh nhân đó nên được chẩn đoán
theo tên gọi của loại rối loạn nhân cách mà các tiêu chí của rối loạn đó phù
hợp với triệu chứng của bệnh nhân. “Hỗn hợp” là tên chỉ dùng cho những bệnh
nhân có rối loạn nhân cách nhưng không đủ tiêu chuẩn để xếp loại.
Chẩn đoán rối loạn nhân cách
“khác” (other personality disorder) được dùng khi thầy thuốc nhận thấy
bệnh nhân có một tình trạng rối loạn nhân cách cần được đặt tên nhưng cái tên
này không nằm trong danh mục chẩn đoán các rối loạn nhân cách của DSM III.
Ví
dụ người thầy thuốc có thể “cảm thấy” bệnh nhân nên được chẩn đoán là rối loạn
nhân cách xung động (impulsive personality disorder) nhưng tên này chưa
có trong DSM III. Người thầy thuốc khi đó có thể đặt tên cho tình trạng này là
rối loạn nhân cách “khác”. Thêm một ví dụ khác là loại rối loạn nhân cách tự
khinh thị (masochistic personality disorder) cũng từng là một loại rối
loạn nhân cách “khác” nhưng sau đó đã được điền thêm vào danh mục những thể
loại chẩn đoán thường quy của các rối loạn nhân cách trong DSM III.
NHỮNG PHƯƠNG PHÁP TRỊ LIỆU
Việc trị liệu những người
bệnh bị rối loạn nhân cách bao gồm hầu hết các phương pháp điều trị trong tâm
thần học. Mục đích trị liệu cũng nhiều như phưong pháp trị liệu. Riêng về tâm
lý trị liệu, gần đây có sự bùng nổ trong việc phát triển nhiều loại liệu pháp
tâm lý khác nhau mà số lượng có thể lên đến hơn 200 thể loại đan xen lẫn nhau.
Mặc dù không có sự phân biệt rõ rệt, các liệu pháp này có thể phân chia thành
những nhóm tương ứng như sau:
- Liệu pháp tâm động học (psychodynamic)
- Liệu pháp tâm lý hỗ trợ (supportive)
- Liệu pháp hành vi (behavioral)
- Liệu pháp nhận thức (cognitive)
- Liệu pháp quan hệ liên cá nhân (interpersonal)
- Liệu pháp “chiến lược - hệ thống” (strategic-systems)
- Liệu pháp hóa dược (pharmacologic)
Các phương pháp trị liệu này có thể áp dụng với thời gian ngắn hạn hoặc dài
hạn, và dưới các hình thức trị liệu cá nhân, trị liệu gia đình hoặc trị liệu
nhóm.
Các khuyến cáo trị liệu sẽ tập trung cho từng loại rối loạn nhân cách trong
trường hợp chẩn đoán chỉ đơn thuần là một loại rối loạn. Nhưng điều thường hay
xảy ra hơn trong thực tế là một bệnh nhân thường có biểu hiện nhiều rối loạn
đồng thời, cho nên các khuyến cáo trị liệu như thế phải được ngoại suy khi áp
dụng cho từng trường hợp trên thực tế. Lý do khiến DSM III có riêng một trục
dành cho chẩn đoán các rối loạn nhân cách là để giúp các thầy thuốc thực hành
có thể xem xét các ảnh hưởng mà một tình trạng rối loạn nhân cách có thể tạo
nên trên quá trình diễn tiến và kết quả trị liệu của một rối loạn ở trục I. Sự
hiện diện của các đặc trưng nhân cách gây kém thích nghi kéo dài chắc chắn sẽ
có ảnh hưởng trên việc điều trị một rối loạn ở trục I hoặc trên bất kỳ một bệnh
lý y khoa nào khác.
Không có những lý thuyết giáo điều trong việc trị liệu những rối loạn nhân
cách. Thay vào đó, việc nghiên cứu có hệ thống và các phán đoán lâm sàng cần
phải rất linh hoạt. Những mục đích trị liệu, những yếu tố thuận lợi, các nguồn
lực và sở thích sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc chọn lựa một phương thức
trị liệu đúng đắn.
Mục đích trị liệu
Mục đích trị liệu có thể giúp định hướng cho việc trị liệu những bệnh nhân
bị rối loạn nhân cách. Một số mục đích có thể thích ứng chuyên biệt với một
hoặc một vài phương thức trị liệu, nhưng lại có những mục đích chỉ phù hợp với
một loại phương pháp trị liệu nào đó. Điều cần nhớ là các mục đích trị liệu có
thể bị ảnh hưởng bởi các bệnh lý khác nhau kèm theo, bởi chính các triệu chứng
trong hiện tại cũng như bởi hoàn cảnh sống của bệnh nhân.
Mặc dù các rối loạn nhân cách là những bệnh lý gây nên tình trạng khiếm
khuyết chức năng lan tỏa, nhưng thông thường chúng ta chỉ tập trung việc trị
liệu nhắm vào những triệu chứng đích (target symptom) nổi bật nhất và dễ
tiếp cận nhất. Ví dụ: những rối loạn tư duy của nhân cách kiểu phân liệt (schizotypal),
sự giao động cảm xúc của nhân cách ranh giới (borderline)...
Một số
phương pháp trị liệu như hóa dược, liệu pháp hành vi ngắn hạn hoặc liệu pháp
chiến lược, có xu hướng nhắm đến những triệu chứng hoặc hành vi đích có tính
chuyên biệt ngay cả khi những triệu chứng hoặc hành vi này được biểu hiện trong
một bối cảnh bệnh lý phức tạp.
Việc định hướng trị liệu nhắm vào cải thiện một
hành vi đích có thể có nhiều lý do :
1.
Vì đây là phương thức dễ làm nhất, trực tiếp nhất và hiệu quả nhất
2.
Vì việc này có thể khởi động một chu trình cải thiện các khía cạnh khác
trong nhân cách của người bệnh bằng cách khuếch đại các thay đổi ban đầu, tuy
nhỏ nhưng tích cực
3.
Đôi khi đó là tất cả những gì có thể làm được cho bệnh nhân đó hoặc tình
huống đó.
Một mục đích khác trong trị liệu các rối loạn nhân cách là thúc đẩy những
thay đổi trong cấu trúc nội tâm và các cơ chế tự vệ của người bệnh. Đây là
những việc khó xác định rõ và khó đạt đến mặc dù có nhiều phương pháp trị liệu
đầy triển vọng đang được phát triển. Đây cũng là những mục đích đặc hiệu của
liệu pháp tâm động học, có tác dụng làm giảm bớt những đặc trưng nhân cách cũng
như các cơ chế tự vệ có tính cứng nhắc và kém thích nghi của người bệnh. Tuy
nhiên, việc này không có nghĩa là phải thay đổi tính tình của bệnh nhân.
Ví dụ:
ta không thể chuyển một bệnh nhân có tính cưỡng chế (compulsive) thành
một người hysterie, mà là
nhằm làm cho cấu trúc tự vệ mang tính cưỡng chế của bệnh nhân trở nên bớt đi
tính chất tự động và cứng nhắc bằng cách làm gia tăng khả năng nội thị (insight)
và kiểm soát các xung đột vô thức của người bệnh. Liệu pháp tâm động học có thể
áp dụng với nhiều mức độ khác nhau trong việc thay đổi tính cách của bệnh nhân.
Liệu pháp trọng điểm (focal therapy) là một loại liệu pháp tâm lý ngắn
hạn, chủ yếu nhằm phân tích và giải quyết một vấn đề với mục tiêu ngắn hạn;
trong khi liệu pháp phân tâm (psychoanalysis) thường có mục đích lớn
hơn, nhằm bộc lộ và giải quyết toàn bộ các xung đột dồn nén và thoái lùi bên
trong vô thức.
Một mục đích thường được đặt ra trong tâm lý trị liệu là nhằm thay đổi các
quan hệ xã hội của bệnh nhân. Một số phương pháp chẩn đoán nhân cách đã được
thiết kế dựa trên việc đánh giá các kỹ năng quan hệ xã hội của bẹnh nhân, và
việc đánh giá này là một phần quan trọng trong chẩn đoán các rối loạn nhân
cách. Trong trị liệu các các rối loạn nhân cách, mục đích cải thiện kỹ năng
quan hệ xã hội chủ yếu được áp dụng dưới hình thức trị liệu nhóm, điều chỉnh
quan hệ và trị liệu gia đình.
Trong nhiều trường hợp, mục đích trị liệu còn nhằm hỗ trợ cho các khuôn mẫu
nhân cách và cơ chế tự vệ đặc thù của bệnh nhân nhằm giúp bệnh nhân vượt qua
được các hoàn cảnh gây stress, sao cho sự thoái lùi hạn chế ở mức thấp nhất và
sự hợp tác với kế hoạch trị liệu được phát huy ở mức cao nhất. Khá nhiều người
bệnh có những đặc trưng nhân cách kiên định, bất di bất dịch; khi đó, việc trị
liệu tốt nhất nên hỗ trợ những cơ chế tự vệ đặc thù của người bệnh nhằm làm
giảm khuynh hướng diễn tiến sang các rối loạn mất bù trù ở trục I và ngăn chận
sự xuất hiện những hành vi kém thích nghi.
Liệu pháp hóa dược
Hầu hết các rối loạn nhân cách đều không đáp ứng với điều trị bằng thuốc và
đây cũng là một cơ sở cho việc chẩn đoán phân biệt giữa rối loạn nhân cách và
rối loạn khí sắc. Tuy nhiên, gần đây có sự gia tăng khuynh hướng dùng thuốc
trong điều trị các rối loạn nhân cách. Những kết quả tốt nhất trong điều trị
một triệu chứng đích (ví dụ triệu chứng trầm cảm ở một bệnh nhân rối loạn nhân
cách ranh giới) có thể được khái quát hóa như trong các lĩnh vực khác. Tuy
nhiên, vẫn chưa có nhiều nghiên cứu để kiểm chứng điều này.
Một số nghiên cứu
sơ bộ cho thấy các tác dụng có lợi của thuốc chống loạn thần trong việc điều
trị nhân cách kiểu phân liệt và thuốc chống trầm cảm đối với một số trường hợp
rối loạn nhân cách ranh giới. Kelin đã sử dụng thuốc nóm IMAO để điều trị trạng
thái hysteroid dysphoric và Ritkin dùng Lithium để điều trị các
‘rối loạn tính tình có cảm xúc không ổn định’ (tương đương với các chẩn đoán
rối loạn nhân cách kịch tính và rối loạn nhân cách ranh giới trong DSM III).
Rối loạn nhân cách tránh né (avoidant) kèm theo những cơn hoảng loạn (panic
attack) có thể có lợi khi được điều trị bằng thuốc chống trầm cảm ba vòng
(tricyclic) hoặc IMAO – Thuốc chống trầm cảm cũng có thể tác dụng tốt vói một
số trường hợp rối loạn nhân cách tự khinh thị (masochisic).
Liệu pháp hành vi
Có vẻ gì đó hơi nghịch lý khi ta bàn đến việc áp dụng liệu pháp hành vi
trên các trường hợp rối loạn nhân cách, bởi khái niệm ‘nhân cách’ là điều có
tính trái ngược với quan điểm của các nhà trị liệu hành vi chính thống. Tuy
nhiên, liệu pháp hành vi là một phương pháp trị liệu có trọng tâm nhắm vào
triệu chứng (symptom-focused) và có thể có một tác dụng giới hạn hoặc
thậm chí là một tác dụng toàn diện trên chức năng của nhân cách.
Ví dụ việc
huấn luyện tính quyết đoán (assertiveness training) có tác dụng tốt đối
với những bệnh nhân rối loạn nhân cách thụ động – gây hấn, rối loạn nhân cách
né tránh và rối loạn nhân cách lệ thuộc. Các kỹ thuật trị liệu nhận thức – hành
vi (CBT) để điều chỉnh lại sơ đồ nhận thức của bệnh nhân nên được áp dụng đối
với các loại nhận thức phi lý trong rối loạn nhân cách; việc áp dụng liệu pháp
này là một lĩnh vực nghiên cứu rất phong phú trong tương lai.
Liệu pháp quan hệ và liệu pháp gia đình
Việc chẩn đoán một người bị rối loạn nhân cách dường như ngụ ý rằng vấn đề
(rối loạn) chỉ tồn tại bên trong bản thân người ấy. Nhưng theo quan điểm hệ
thống, không có một nhân cách bị rối loạn mà chỉ có một hệ thống các mối quan
hệ bị rối loạn. Tuy nhiên, việc này tạo nên một sự phân chia giả tạo giữa hai
trạng thái: các rối loạn nhân cách theo định nghĩa của DSM III và những rối
loạn về mặt quan hệ xã hội ở mức độ rộng. Những bệnh nhân thỏa các tiêu chí của
một loại rối loạn nhân cách nào đó cũng đều có những phong cách bệnh lý đặc
trưng có liên quan đến những loại rối loạn nhân cách khác.
Ví dụ:
- Phong cách paranoid:
ngờ vực, không tự tin
- Phong cách dạng phân liệt (schizoid): bàng quan, xa cách
- Phong cách kiểu phân liệt (schizotypal): lo âu, nghi ngờ,
tự cô lập
- Phong cách kịch tính (histrionic): tự buông thả, lệ thuộc,
ve vãn, quyến rũ
- Phong cách ái kỷ (narcissistic): lợi dụng, phô trương, nắm
quyền
- Phong cách chống đối xã hội (antisocial): vô trách nhiệm,
có tính lợi dụng
- Phong cách ranh giới (borderline): quan hệ thân sâu nhưng
không bền vững
- Phong cách tránh né (avoidant): vô trách nhiệm theo kiểu
thụ động và thù nghịch
- Phong cách tự khinh thị (masochistic): tự hành hạ, khêu gợi
có tính tội lỗi...
Các rối loạn nhân cách được
xem như những khuôn mẫu quan hệ khi mà hành vi của một người được duy trì bởi
sự biểu hiện của những hành vi bổ trợ nhằm củng cố hành vi gốc ban đầu. Nhà trị
liệu được khuyến cáo là nên thể hiện những hành vi bổ trợ cho những hành vi có
tính lành mạnh hơn so với hành vi hiện tại của bệnh nhân, nhằm phá vỡ các mối
quan hệ thông đồng và không lành mạnh.
Ngay cả khi một người không
chấp nhận quan điểm hệ thống thì việc trị liệu nhóm và gia đình cũng thường là
một phần hữu ích của việc trị liệu. Chất lượng của khả năng quan hệ xã hội của
bệnh nhân (hoặc việc thiếu những khả năng này) thường là một phần của tình
trạng rối loạn nhân cách của người ấy. Thân nhân của người bệnh trong thực tế
đã có thể đầu tư sự quan tâm của họ vào người bệnh khi anh ta không chịu thay
đổi, và khi có sự thay đổi xảy ra thì họ lại bị lo sợ hoặc lúng túng. Thân nhân
của người bệnh có thể trở thành những đồng minh quan trọng trong việc trị liệu
và sự hợp tác tham gia của họ có thể đạt được thông qua việc áp dụng các liệu
pháp hôn nhân và gia đình.
Một nhà trị liệu nếu không nhận ra được tầm quan
trọng của những thân nhân ấy sẽ cảm thấy mình bị cô độc khi làm việc. Khi ấy,
nhà trị liệu sẽ phải đương đầu với một hệ thống mà quyền lực của nó gây ra đối
với bệnh nhân có thể lớn hơn bất kỳ tác dụng nào mà sự cộng tác trị liệu có thể
tạo nên.
Tâm lý trị liệu theo định
hướng tâm động học
Mặc dù liệu pháp phân tâm
ban đầu được định hướng chữa trị triệu chứng, nhưng nhanh chóng sau đó vấn đề
cấu trúc nhân cách đã trở thành tiêu điểm của sự chú ý trong liệu pháp tâm động
học.
Tâm lý trị liệu theo hướng tâm động học (psychodynamic psychotherapy)
đã cung cấp những kỹ thuật trị liệu tập trung vào sự thay đổi các cấu trúc nhân
cách. Hầu hết các tư liệu y văn liên quan đến việc trị liệu các rối loạn nhân
cách đều dựa trên nền tảng phân tâm học hoặc tâm động học.
Các khái niệm trong tâm động
học như “chuyển di” (transference) và “chuyển di ngược” (counter-transference)
đều đặc biệt thích hợp với việc trị liệu các rối loạn nhân cách. Các rối loạn
nhân cách có một tác động sâu sắc đến các mối quan hệ xã hội và phong cách quan
hệ có tính bệnh lý đặc trưng sẽ tái diễn lại trong mối quan hệ chuyển di. Vì
thế, trong trị liệu cần phải thiết lập được một mối quan hệ trị liệu có tính
xây dựng, đồng thời cũng tạo nên những cơ hội cho việc tìm hiểu và diễn giải.
Nhà trị liệu thường sẽ phát triển một đáp ứng bổ trợ ví dụ: khiển trách về đạo
đức, từ chối vì khó chịu, rút lui xa cách, kiểm soát kiểu người cha hoặc gắn bó
ve vãn...) từ đó có thể hiểu được cách thức mà bệnh nhân cư xử với những đối
tượng quan trọng trong đời của họ và cách thức mà bệnh nhân cảm nhận về những
đối tượng ấy cũng như cách thức mà những đối tượng đó đã đối xử với bệnh nhân,
rồi sau đó phá vỡ mô hình quan hệ này thông qua khả năng nội thị và những trải
nghiệm đúng đắn trong quan hệ giữa người với người.
Những khó khăn đặc biệt
trong việc thiết lập mối quan hệ trị liệu với những bệnh nhân rối loạn nhân
cách đã đặt ra vấn đề xem lại tính hiệu quả của liệu pháp tâm động học. Đối với
những bệnh nhân rối loạn nhân cách ranh giới, thay vì áp dụng liệu pháp tâm lý
có tính thăm dò (exploratory), người ta khuyên nên dùng các liệu pháp có
tính hướng dẫn và hỗ trợ vì ở những bệnh nhân này việc thiết lập những mối quan
hệ thâm sâu nhưng kém ổn định có thể dễ dẫn đến những triệu chứng rối nhiễu
nhiều hơn. Tuy nhiên, nhiều tác giả khuyên nên áp dụng liệu pháp có tính thăm
dò kết hợp với các loại liệu pháp có tính hỗ trợ khác (ví dụ: nhập viện ngắn
hạn) để xử lý những đợt loạn thần gây ra sự thoái lùi cấp thời, nguy cơ tự sát
hoặc rối loạn khí sắc nặng.
Dĩ nhiên việc lựa chọn liệu
pháp còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố chứ không đơn giản là có hay không có triệu
chứng của rối loạn nhân cách. Tính đúng đắn của việc áp dụng liệu pháp tâm động
học còn tùy thuộc phần nào vào trạng thái tâm lý, khả năng nội thị và sự thay
đổi tính tình của người bệnh. Người bệnh có các rối loạn nhân cách kiểu phân
liệt, dạng phân liệt hoặc paranoid khi được trị liệu theo hướng tâm động học
thì ít có lợi hơn so với những bệnh nhân bị rối loạn nhân cách cưỡng chế, lệ
thuộc, né tránh, kịch tính, thụ động – gây hấn, tự khinh thị, hoặc có thể cả
rối loạn ái kỷ và ranh giới.
Liệu pháp tâm động học không
chỉ là những liệu pháp mở, dài hạn, mà còn có thể áp dụng dưới hình thức giới
hạn về thời gian và có sự tập trung về mục tiêu. Quan điểm tâm động học có thể
có ích trong những tình huống khi mà kiểu nhân cách của bệnh nhân gây trở ngại
cho việc quản lý tâm thần y khoa. Trong một số trường hợp, nhân cách bệnh nhân
cần được sự hỗ trợ để giúp người bệnh đương đầu với các tác nhân gây stress (ví
dụ như khi mắc một bệnh lý y khoa khác).
KẾT LUẬN
Người thầy thuốc khi chẩn
đoán một bệnh nhân bị rối loạn nhân cách thì cũng cần phải quyết định xem bệnh
nhân có muốn và có cần được trị liệu hay không.
Nếu cần thì các mục tiêu trị
liệu có thể là:
- Thay đổi nhân cách
- Hỗ trợ nhân cách vượt qua giai đoạn stress
- Hoặc chỉ thay đổi một triệu chứng đích
Sau đó, xem xét liệu pháp
đặc biệt nào có thể hiệu quả cho những mục đích này: liệu pháp tâm đọng học, liệu
pháp quan hệ, liệu pháp hỗ trợ, liệu pháp hành vi, trị liệu nhóm, trị liệu gia
đình hoặc điều trị bằng hóa dược...
Mặc dù chẩn đoán các rối
loạn nhân cách là việc khó khăn và kết quả của trị liệu vẫn còn nhiều bàn cãi,
nhưng chúng ta vẫn được hướng dẫn bởi cả một truyền thống kinh nghiệm lâm sàng
rất phong phú. Và DSM III đã cung cấp một phương pháp chẩn đoán tâm thần học
rất đáng tin cậy.
Tâm bệnh học nhân cách hiện
diện trong tất cả các cơ sở thực hành lâm sàng. Việc chẩn đoán và trị liệu các
rối loạn nhân cách có thể là một nỗ lực quan trọng đối với một thầy thuốc tâm
bệnh trong cuộc đời hành nghề của mình. May thay, các công cụ nay đã có sẵn
giúp cho công việc này trở nên dễ dàng hơn và được tiến hành một cách có hệ
thống hơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét