BS.
NGUYỄN MINH TIẾN (dịch và tổng hợp)
Phần I
Không giống như những thói
quen về sức khỏe có thể trực tiếp đưa những tác nhân gây biến đổi tình trạng
sức khỏe vào trong cơ thể, stress chỉ các thay đổi về tâm sinh lý xảy ra
nhằm đáp ứng các với các kích thích được cơ thể nhận biết là đe dọa hoặc có hại.
Những điều mà chúng ta nghĩ đến và cách thức mà chúng ta cảm thấy đều có ảnh
hưởng đến sức khỏe; tâm trí và thân thể liên hệ với nhau một cách mật thiết.
Trong bài viết này, chúng ta sẽ xem xét khái niệm về stress và những tác động
của nó đối với sức khỏe và bệnh tật.
ĐỊNH NGHĨA STRESS
Stress là một khái niệm khó nắm bắt. Nó đã được định nghĩa theo
nhiều cách: như một tác nhân
môi trường, một đáp ứng
sinh lý, và như một quá
trình nhận thức - hành vi. Các định nghĩa này đều tập trung vào một bình
diện cơ cấu (organizational level) nào đó và loại bỏ một cách tương đối
những bình diện khác; và điều này đã dẫn đến nhiều sự nhầm lẫn. Mỗi một định
nghĩa đơn bình diện (single-level) này sẽ được xem xét một cách vắn tắt
để đưa những lý thuyết và nghiên cứu liên quan đến stress vào những bối cảnh
lịch sử cụ thể. Mỗi một trong số những cách nhìn này đều không đầy đủ. Khái
niệm về stress vốn dĩ là một khái
niệm đa bình diện (multilevel),
nó bao gồm những đáp ứng thuộc về cảm xúc, hành vi và sinh lý của cơ thể thông
qua sự tương giao với môi trường. Sau khi những lý thuyết trên từng bình diện
được xem xét, một cách nhìn tổng hợp về stress sẽ được trình bày.
Stress - Một đáp ứng sinh
học
Quan niệm về stress liên
quan đến sức khỏe thể chất đã bắt nguồn từ các nhà sinh học. Theo cách nhìn
sinh học, stress được định nghĩa là một
hội chứng đặc hiệu bao gồm tất cả những thay đổi được gây ra một cách không đặc
hiệu bên trong hệ thống sinh học (Selye,
1956). Stress là một đáp ứng sinh lý có tính không đặc hiệu, xét về cả nguyên
nhân lẫn kết quả. Bất cứ sự kiện nào đòi hỏi sự thích ứng đều làm khởi phát các
đáp ứng sinh lý đặc trưng cho stress. Những đáp ứng này cũng có tính không đặc
hiệu; các loại sự kiện gây stress khác nhau đều dẫn đến những biến đổi tương tự
nhau. Chúng ta hãy xem xét tóm tắt những đáp ứng sinh lý được dùng để định
nghĩa stress.
Trong khi Selye (1956) lần đầu tiên đưa ra khái
niệm về stress, Cannon (1927) là nhà nghiên cứu đầu tiên
mô tả một cách khái quát một phản ứng đối với sự đe dọa mà ông gọi là phản ứng “chống hoặc chạy” (fight or flight). Cannon
cho rằng khi một sinh vật đương đầu với một sự đe dọa cho sự sống còn của mình,
thì các biến đổi sinh lý sẽ xảy ra theo một mô hình đã được “cài đặt” sẵn. Có
sự gia tăng nhịp tim, huyết áp và hô hấp. Máu được phân bố đến các bắp cơ lớn
và các quá trình tiêu hóa bị ngưng lại. Những thay đổi này nhằm chuẩn bị cho cơ
thể sinh vật ấy thực hiện được những hành động mạnh mẽ nhằm đáp ứng với sự đe
dọa: hoặc chống trả, hoặc “cao chạy xa bay”. Sự khuấy động ấy là một khả năng
hoạt hóa đã được cài đặt sẵn bên trong cơ thể sinh vật, tạo nên cơ may sống còn
của nó dưới những điều kiện đe dọa. Tất cả chúng ta đều từng trải qua sự kích
hoạt này. Ngay sau khi thoát khỏi một tai nạn gần kề, bạn thấy ngay tim đập
thình thịch, cảm giác nôn nao và lòng bàn tay ẩm mồ hôi.
Selye (1956) đã quan sát
thấy một hệ thống liên quan của các đáp ứng sinh lý chung nhất khi những sinh
vật tiếp xúc với các kích thích có hại như bị dồn ép trong đám đông, nhiệt độ
lạnh hoặc tiếp xúc các độc tố. Ông gọi các đáp ứng này là Hội chứng thích nghi tổng quát (GAS - general adaptation syndrome).
GAS ngụ ý chỉ những hoạt động thần kinh và nội tiết cho phép cơ thể sinh vật
chống lại những kích thích sinh lý có hại. GAS được chia làm ba giai đoạn:báo
động (alarm), kháng cự (resistance) và kiệt quệ (exhaustion). Trong giai
đoạn báo động, có sự bài xuất liên tục các hormone từ tuyến thượng thận, mà
điều này được cho là để bảo vệ cơ thể sinh vật chống lại các kích thích có hại.
Nếu các kích thích này vẫn không giảm bớt, những hormone tuyến thượng thận sẽ
bắt đầu gây ra những tác hại cho hệ tuần hoàn, hệ tiêu hóa và hệ miễn dịch. Nếu
các yếu tố gây stress tiếp tục đủ lâu, sinh vật sẽ bị chết vì tiềm năng thích
ứng của nó sẽ bị kiệt quệ.
Trong lúc Selye và Cannon mô
tả một cách tỉ mỉ những ảnh hưởng sinh lý của stress, họ đã không nhận ra được
tầm quan trọng của những thông số tâm lý và hành vi trong việc xác lập những
đáp ứng sinh lý này. Sự xuất hiện các đáp ứng “chống hoặc chạy” và GAS tùy
thuộc vào sự nhận biết của đương sự về các kích thích có hại và việc người đó
có diễn giải các kích thích này là có tính đe dọa hoặc có hại cho họ hay không. Khi các kích thích có hại xảy đến
mà không có sự nhận biết của đương sự, các đáp ứng sinh học sẽ không xảy ra (Mason, 1975b). Ví dụ,
những bệnh nhân sắp chết nhưng đang trong tình trạng hôn mê thì không biểu hiện
một bằng chứng sinh học nào của stress; trong khi những người sắp chết nhưng
còn tỉnh thì lại biểu hiện các phản ứng (Syrington, Currie, Curran, Davidson,
1955).
Selye và Cannon sử dụng các
kích thích có hại về thể chất làm yếu tố gây stress. Các phản ứng “chống hoặc
chạy” và GAS cũng được gây ra từ những kích thích có hại về tâm lý, như chán
chường, thi cử, hoặc xem một cuốn phim kinh dị (Frankenhaeuser, 1972,
1978). Sự khuấy động sinh lý xảy ra để đáp ứng với cả những kích thích về tâm
lý lẫn thể chất. Trong các thực nghiệm của Selye và Cannon, các sinh vật không
được điều kiện hóa để đáp ứng bằng hành vi với các yếu tố gây stress. Trong môi
trường tự nhiên, con người lại có thể đáp ứng một cách điển hình với các tác
nhân gây stress. Sự xuất hiện phản ứng “chống hoặc chạy” hoặc GAS phụ thuộc vào
khả năng tiên đoán và kiểm soát các sự kiện có hại. Một loạt nghiên cứu của Weiss (1968, 1971a, 1971b) đã cho thấy
tầm quan trọng của những khả năng tiên đoán và kiểm soát ấy.
Trong một nghiên
cứu, hai nhóm chuột được cho tiếp xúc với một loạt các cú sốc điện. Các con
chuột trong nhóm thứ nhất có thể đạp lên một đòn bẩy để thoát khỏi các cú sốc;
những con trong nhóm thứ hai cũng nhận các cú sốc điện như nhóm thứ nhất, nhưng
không có khả năng né tránh. Chuột trong nhóm thứ nhất được thấy ít bị loét dạ
dày hơn nhóm thứ hai. Trong một thí nghiệm tương tự, những con chuột được nhìn
thấy những tín hiệu báo cho biết sốc điện sắp xảy ra, ngay cả khi không có khả
năng né tránh bằng hành vi, cũng ít
bị loét hơn những con chuột chịu những cú sốc điện tương tự nhưng không được
báo trước bằng tín hiệu và không có khả năng né tránh. Do vậy, tiên đoán được một sự kiện có hại
xảy ra vào lúc nào thì tốt hơn là khi không có thông tin gì về sự kiện này.
Trong thí nghiệm sau cùng, Weiss thấy rằng những con chuột nhận được một tín
hiệu mà nhờ đó giúp cho đáp ứng hành vi của chúng có hiệu quả cắt được cú sốc
điện cũng sẽ ít bị loét dạ dày hơn những con chuột bị sốc điện nhưng không nhận
được tín hiệu báo tin. Để tóm tắt những phát hiện của Weiss, một sự kiện đe dọa sẽ ít gây ra
những hậu quả tai hại nếu chúng ta biết được khi nào nó sẽ xảy ra, nếu chúng ta
có thể làm được một việc gì đó trước sự kiện ấy, và nếu chúng ta nhận được
những phản hồi về hiệu quả của hành động ấy. Tầm quan trọng của khả năng
tiên đoán và kiểm soát cũng được thấy trong các đáp ứng của con người đối với
những tác nhân gây stress (Rodin, 1980).
Quan niệm cho rằng đáp ứng
sinh lý với stress là có tính không đặc hiệu (giống nhau trong mọi điều kiện có
hại) cũng đã bị thách thức. Các
biến đổi sinh lý còn tùy thuộc vào cách thức phản ứng của đương sự về hành vi
và cảm xúc. Nhiều mô hình sinh lý khác nhau đã được phát hiện khi người ta
đáp ứng với yếu tố gây stress bằng sự sợ hãi hơn là giận dữ (Mason,
1975b), bằng sự cảnh giác hơn là hành động (Obrist, 1976), bằng phương
thức ganh đua, thù địch hơn là bằng phương thức ôn hòa (Dembroski,
1981). Cách thức mà chúng ta diễn giải hoặc đối phó với những tình huống đe dọa
sẽ ảnh hưởng đến mô hình khuấy động sinh lý liên quan đến tình huống đó. Cách
nhìn về stress dựa trên các đáp ứng sinh học không phải là không đúng, nhưng nó
chưa được hoàn hảo.
Stress - Một sự kiện từ
môi trường
Quan niệm về stress như một
sự kiện từ môi trường được xuất phát từ các quan sát lập đi lập lại của tình
trạng suy sụp về sinh lý và hành vi ở những người tiếp xúc với các điều kiện
sống khắc nghiệt, như tham chiến trong quân đội (Grinker & Spiegal,
1945) và bị những mất mát (Lindemann, 1944). Nếu như môi trường khắc
nghiệt dẫn đến những hậu quả tiêu cực, thì sự tích lũy dần những sự kiện ít
khắc nghiệt hơn cũng có thể có những hậu quả tai hại. Từ cách nhìn này, stress
được định nghĩa như một sự
kiện từ môi trường đòi hỏi một cá nhân phải thử thách những tiềm năng và đáp
ứng không bình thường (Holroyd,
1979). Stress trú ngụ trong những “đòi hỏi” của sự kiện hơn là bên trong cá
nhân người ấy.
Các nghiên cứu thực hiện
theo quan điểm môi trường đều có bản chất dịch tễ học: số lượng và mức độ của
các sự kiện gây stress sẽ có tính tiên lượng cho tình trạng sức khỏe của đương
sự (Dorenwend, 1981). Một cách có phương pháp, các đương sự được yêu cầu
liệt kê những sự kiện gây stress mà họ đã trải qua trong một khoảng thời gian
nhất định (trong 6 tháng chẳng hạn), ví dụ danh
sách về các sự kiện mới nhất (SRE: schedule of recent events) củaHolmes và Rahe, 1967. SRE gồm nhiều tiết
mục như ly hôn, cưới hỏi, sinh con, ngồi tù, mắc nợ, lễ giáng sinh… Mỗi tiết
mục được đánh giá dựa trên giả định rằng một số việc (cưới hỏi) có tính “đòi
hỏi” nhiều hơn một số việc khác (lễ giáng sinh). Việc đánh giá các sự kiện được
giả định một cách dứt khoát rằng mỗi một sự kiện nhất định đều có tính chất gây
stress như nhau với tất cả mọi người. Cả những sự kiện tích cực lẫn tiêu cực
đều được xem là có tính gây stress, vì cả hai loại đều đòi hỏi sự thích ứng.
Rất nhiều nghiên cứu đã sử
dụng SRE để đánh giá mối liên quan giữa stress và sức khỏe. Những nghiên cứu
nhằm tiên đoán bệnh trong tương lai và giải thích căn bệnh trong hiện tại đã
tìm ra mối liên quan giữa số lượng và mức độ của các yếu tố gây stress với khả
năng mắc các bệnh như đột tử do bệnh tim, các cơn đau thắt ngực, lao (Rabkin,Struening,
1976) và một số bệnh nhiễm trùng (Jemmotti, Locke, 1984).
Có vài vấn đề trong phương
pháp tiếp cận với stress về khía cạnh môi trường. Liên quan giữa stress và bệnh
tật có mức độ vừa phải; tương quan trung bình khoảng 0,12; tối đa 0,3 (Tanig,
1982). Các đánh giá về mặt môi trường của stress có khả năng tiên đoán giới
hạn. Trái với quan điểm về môi trường, không hẳn tất cả những thay đổi đều nhất
thiết có tính gây stress. Những thay đổi như mãn kinh và về hưu không được xem
là yếu tố gây stress nếu chúng xảy ra “đúng lúc” và được dự kiến trước. Trong
vài trường hợp, tình trạng ít thay đổi lại có thể gây stress. Những tình huống
chán chường kéo dài hoặc không được thăng tiến lại thường được xem là có thể
gây stress (Lazarus, Folkman,
1984).
Các sự kiện cũng không có
tính gây stress như nhau ở tất cả mọi người. Mức độ stress phụ thuộc vào ý
nghĩa của sự kiện và những tiềm năng sẵn có ở mỗi người. Ví dụ, Lazarus, Homikos và Rankin đã cho những đối tượng nghiên cứu
của họ xem cuốn phim về một tai nạn đáng sợ, trong đó một công nhân bị đứt một
ngón tay và một người khác bị chết do một tấm gỗ lớn đâm xuyên qua ngực. Trước
khi xem, một số đối tượng được cho biết rằng cuốn phim chỉ là một sự dàn cảnh,
còn các đối tượng khác thì không được thông báo gì. Những người được biết trước
thì ít bị khuấy động và lo âu hơn, có lẽ do họ đã nhận định sự việc là “không
thật”. Việc nhận định về sự
kiện đóng vai trò trung tâm trong khi xác định mức độ gây stress của sự kiện.
Mức độ stress cũng tùy
thuộc vào những kỹ năng và tiềm năng sẵn có của đương sự trong việc ứng phó với
sự kiện. Nuchol, Cassel và Kaplan (1972) đã đánh giá những hậu quả
của stress và khả năng ứng phó trong thai kỳ đối với các biến chứng khi sinh
đẻ. Tuy nhiên, khi xem xét chung các sự kiện trong đời sống và khả năng ứng
phó, người ta thấy chúng có liên quan chặt chẽ với nhau. 90% phụ nữ có điểm số thay đổi đời sống (life
change score) cao và khả năng
ứng phó kém đều được chứng minh là có ít nhất một biến chứng, trong khi chỉ 33%
có điểm số thay đổi cao và khả năng ứng phó cao bị biến chứng.
Quan niệm về stress như một
sự kiện có tính “đòi hỏi” từ môi trường là chưa đầy đủ. Những cuộc xét lại các
sự kiện gây stress gần đây đã sửa chữa một số nhược điểm này bằng cách yêu cầu
đương sự xác định mức độ ảnh hưởng - tích cực hoặc tiêu cực - của những sự kiện
mà họ đã trải qua (Sarason, Johnson, Siegel, 1978). Thông qua việc
chia mức độ như thế, những phương thức đánh giá mới này đã cố gắng ghi nhận khả
năng nhận định và ứng phó của các đương sự. Trái với những quan niệm cho rằng
bất kỳ sự kiện thay đổi nào cũng gây stress, dữ kiện từ các đánh giá đã chothấy
các sự kiện tích cực có tính tăng cường sức khỏe hơn là hủy hoại sức khỏe (DeLongis, Coyne, Dakof,Folkman, Lazarus, 1982; Sarason, 1978).
Cách nhìn về stress theo quan
điểm sinh học và môi trường cơ bản là những mô
hình kích thích - đáp ứng(Stimulus-Response model). Chúng không cung
cấp một cái nhìn thấu đáo vào những thông số và những quá trình trung gian điều
hòa mối liên quan giữa các sự kiện có hại và các đáp ứng sinh học. Nếu những sự
kiện gây stress dẫn đến hậu quả tiêu cực cho sức khỏe, thì điều đó xảy ra như
thế nào?
Stress - Một hiện tượng
thuộc về nhận thức - hành vi
Phương pháp tiếp cận về mặt
nhận thức - hành vi định nghĩa stress như một
quá trình tương giao giữa con người và môi trường, trong đó đương sự nhận định
sự kiện từ môi trường là có tính chất đe dọa và có hại, và đòi hỏi đương sự
phải cố gắng sử dụng các tiềm năng thích ứng của mình (Lazarus, 1966; Lazarus, Folkman, 1984). Stress không
chỉ trú ngụ trong sự kiện hoặc trong đáp ứng của đương sự, mà tồn tại trong cả
hai yếu tố đó, cũng như trong các đáp ứng nhận thức-hành vi giữ vai trò điều
hòa hai yếu tố đó. Cách nhìn này rõ ràng nhấn mạnh vào khía cạnh nhận thức -
hành vi (thuộc về tâm lý) trong việc hiểu biết về stress, vì thế, nó đã bù đắp
vào những thiếu sót của các mô hình stress “sinh học” và stress “môi trường”.
Hai quá trình trung tâm
trong quan điểm tâm lý-hành vi là nhận
định (cognitive appraisal)
và ứng phó (coping). Nhận định là quá
trình mà qua đó đương sự đánh giá sự kiện là có tính đe dọa hoặc có hại hay
không, nếu có thì ở mức độ nào. Một sự kiện chỉ gây stress khi đương sự nhận
định là “có hại”. Ứng phó là quá trình xảy ra những đáp ứng về hành vi, nhận
thức và tình cảm của đương sự đối với sự kiện. Một sự kiện chỉ gây stress khi
đương sự thiếu các phương tiện để ứng phó. Bằng cách tích hợp các bình diện
nhận thức, cảm xúc, hành vi và môi trường của stress, quan điểm này do vậy có
thể được dùng làm khởi điểm cho việc xây dựng một phương thức tiếp cận stress
một cách có hệ thống. Quan điểm nhận thức - hành vi bỏ qua bình diện sinh học
của stress cùng những liên quan giữa sinh học với các bình diện nhận thức, xúc
cảm, hành vi.
STRESS - MỘT QUAN ĐIỂM HỆ
THỐNG
Stress là một khái niệm mang tính tổ chức, liên hệ đến nhiều thông
số và quá trình, xảy ra trên nhiều bình diện của sự phân tích: sinh lý, nhận
thức - cảm xúc, hành vi và môi trường. Vì thế, stress là một đáp ứng tích hợp sinh
học - tâm lý - xã hội với những sự kiện được xem là có hại và đòi hỏi những kỹ
năng ứng phó của đương sự. Chúng ta sẽ khảo sát từng bình diện một cách chi
tiết và mô tả những ảnh hưởng qua lại của chúng.
Nhận định (cognitive
appraisal)
Các kích thích không mong
muốn từ môi trường, sinh lý và tinh thần không gợi lên ngay một đáp ứng
stresss. Đương sự không thụ động tiếp nhận kích thích, mà chủ động nhận định về
nó. Nhận định là quá trình
trong đó chúng ta gán những ý nghĩa cho các sự kiện bên trong chung ta hoặc
xung quanh chúng ta (Levine, Weinberg, Ursin, 1978). Chúng ta thường
xuyên đánh giá sự thích đáng đối với bản thân (personal relevance) và ý
nghĩa hưởng lạc (hedonic connotation) của những kích thích mà chúng ta
chú tâm đến.
Dựa trên kinh nghiệm quá khứ và hoàn cảnh hiện tại, một kích thích
có thể được đánh giá là: (1) không
đáng kể (một tình trạng không
có ý nghĩa đặc biệt nào); (2) lành
tính(một tình trạng tích cực, làm gia tăng phúc lợi cá nhân); hoặc (3) tiêu cực (một tình trạng thực sự tiêu cực,
đe dọa đến phúc lợi cá nhân) (Lazarus, Launier,
1978).
Stress liên quan đến
việc nhận định một sự kiện là có tính đe dọa, có hại hoặc thách thức. Giả sử bạn lái xe lên miền núi để
thực hiện một kỳ trượt tuyết và gặp phải một trận bão tuyết. Con đường có thể
vượt qua được, nhưng bị đóng băng rất nhiều. Nhiều xe hơi, xe tải được thấy nằm
trong các mương rãnh ở hai bên đường. Bạn thật khó mà điều khiển được xe. Có lẽ
bạn sẽ thấy rất căng thẳng và tức giận. Bạn cũng đang trong tình trạng nguy
hiểm và có thể bị mất một kỳ nghỉ đáng giá mà bạn đã chuẩn bị từ lâu. Như đã nêu
trong phần đầu, một tình huống nhất định có thể gợi lên một số kiểu nhận định
tiêu cực.
Một khi sự kiện được nhận
định là “tiêu cực”, một sự lượng giá khác cũng sẽ được thực hiện nhằm xem xét
có thể làm được gì để ứng phó với sự kiện và liệu những việc ấy sẽ mang lại
hiệu quả như thế nào. Quá trình này gọi là nhận
định khả năng ứng phó (coping
appraisal) (Lazarus, Folkman,
1984). Nếu quá trình nhận định
kích thích (stimuli
appraisal) đặt ra các câu hỏi chính như “Sự kiện này có ý nghĩa gì đối
với ta?”, thì quá trình nhận định khả năng ứng phó sẽ đặt ra câu hỏi “Ta
có thể làm gì để giải quyết vấn đề này?” và “Những việc ấy sẽ có hiệu
quả như thế nào?”. Giai đoạn này bao gồm việc đề ra một chiến lược ứng phó
(coping strategy) đối với tác nhân gây stress và ước tính hiệu quả của
những chiến lược này.
Ví dụ, để tiếp tục lái xe
(trong tình huống nêu trên), mối quan tâm của bạn về tình trạng đường sá và
mong muốn thực hiện kỳ trượt tuyết khiến bạn phải xem xét để lựa chọn một giải
pháp. Bạn có thể rời khỏi con đường và chờ đợi một xe ủi tuyết; bạn có thể lái
xe chầm chậm cho đến khi tìm được lối ra và chờ cho qua cơn bão; hoặc tìm một
lối đi khác ít nguy hiểm hơn. Bạn có thể đưa ra bất kỳ sự lựa chọn nào, nhưng
phải liệu xem chúng có giúp ích gì hay không? Ngoại trừ việc dừng xe lại tại
chỗ, còn thì chẳng có cách nào có thể tức thời chấm dứt được mối nguy hiểm.
Nhưng việc này lại dẫn đến một sự đe dọa khác kéo dài và nghiêm trọng hơn:
không có thức ăn và thiếu điều kiện để sưởi ấm. Những giải pháp khác thì tốt hơn
về lâu dài. Tuy nhiên, nếu bạn dừng lại và chờ cho cơn bão đi qua, việc đặt
phòng trọ của bạn sẽ bị hủy bỏ. Còn các lối đi khác, theo đài phát thanh, cũng
chẳng có gì tốt hơn vv…
Cả việc nhận định sự kiện
là tiêu cực cũng như việc xem xét các khả năng ứng phó là không đầy đủ và không
hiệu quả đều là những yếu tố cần có để stress xuất hiện. Hai loại nhận định này được bàn riêng để
làm rõ các quá trình, nhưng chúng lại có thể xảy ra tương đối tự nhiên và đồng
thời.
Mức độ “tiêu cực” của một sự kiện và mức độ “không đầy đủ” của tiềm năng
ứng phó có thể thay đổi. Việc nhận định kích thích và nhận định khả năng ứng
phó sẽ tương tác với nhau để hình thành mức độ của stress mà đương sự trải qua.
Mức độ stress cao nhất (như trong ví dụ trên) xảy ra khi kích thích là rất tiêu
cực và khi không có biện pháp nào để giải quyết sự kiện. Khi sự kiện ít trầm
trọng hơn và các cố gắng ứng phó có tính khả thi thì mức độ stress sẽ giảm đi.
Tuy nhiên, một số tình huống vẫn xảy ra stress khi sự kiện kích thích được nhận
định là “rất tiêu cực”, ngay cả khi những phương thức ứng phó có khả năng thực
thi được (ví dụ: khi dự các kỳ thi quan trọng, dù bạn đã được chuẩn bị kỹ) do
tính chất nghiêm trọng của sự kiện. Tương tự, khi sự kiện ít nghiêm trọng,
nhưng trong tay không có sẵn những biện pháp giải quyết (như khi ngồi trên ghế
cho nha sĩ nhổ răng, hoặc lái xe qua một vùng hoang vắng), stress sẽ xảy ra do
bị mất khả năng kiểm soát sự kiện.
Như đã mô tả, quá trình nhận
định dường như khá tách biệt và có tính phân tích, và nó không phù hợp với kinh
nghiệm chủ quan của chúng ta về sự đe dọa hoặc có hại. Một phản ứng cảm xúc sẽ
xảy ra đồng thời với quá trình nhận định (Leventhal, Nerenz, 1983). Khi một sự kiện được nhận định là
lành tính, những cảm xúc tích cực như vui vẻ, yêu thương, hạnh phúc, phấn khởi,
thanh thản sẽ diễn ra nơi đương sự. Nếu sự kiện được đánh giá là tiêu cực,
những cảm xúc như sợ hãi, lo âu, tội lỗi, thất vọng hoặc trầm uất sẽ xuất hiện.
Quá trình nhận định hòa nhịp cùng với cảm xúc. Các quá trình nhận định và cảm
xúc có ảnh hưởng qua lại với nhau (Schacter, 1964). Trong thực tế, ngoài
việc kiểm soát chính bản thân sự kiện tiêu cực, đương sự cũng cần kiểm soát các
khuấy động cảm xúc. Trong ví dụ nêu trên, lái xe trên một con đường trơn trợt
và việc mất một kỳ nghỉ có thể gây nên sự tức giận.
Quá trình nhận định có tính
chủ quan nhưng không mạo hiểm. Nó chịu ảnh hưởng bởi bản chất của sự kiện kích
thích và bởi những đặc trưng của đương sự thực hiện việc nhận định. Đây là ý
nghĩa thực sự của quan niệm về tính
tương giao (transaction)
của stress (Lazarus, 1966). Nhân cách, kinh nghiệm quá khứ và các thông
số cá nhân khác của đương sự giúp hình thành nên sự nhận định, đặc biệt khi sự
kiện có tính nhập nhằng, nước đôi. Nhưng cách nhận định của đương sự lại chịu
sự thúc ép của sự kiện. Khi một sự kiện tương đối nhập nhằng, việc nhận định
thường phù hợp với bản chất khách quan của sự kiện. Chúng ta hãy xem xét những
yếu tố thuộc về cá nhân đương sự và sự kiện kích thích đã góp phần vào quá
trình nhận định.
Các yếu tố thuộc cá
nhân đương sự
Sự nhận định về kích thích
và các đáp ứng ứng phó sẵn có nhằm đáp ứng lại kích thích ấy chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ bởi các thông số cá nhân (Wrubel, Brenner, Lazzarus, 1981). Nhiều thông số
cá nhân được nghiên cứu trong mối liên quan với stress. Theo sau Lazarus và Folkman, chúng ta sẽ khảo sát
riêng về hai thông số cá nhân khác là đối
tượng ủy thác (commitment)
và niềm tin (belief).
Đối tượng ủy thác là những
gì mà đương sự đánh giá cao và xem là quan trọng, bao gồm những mục đích và
hoạt động mà họ đầu tư năng lực vào, hoặc những nhóm người và tổ chức mà đương
sự gắn bó. Hãy suy nghĩ về những đối tượng ủy thác của bạn. Những người nào,
hoạt động nào và mục đích nào là rất quan trọng đối với bạn? Bất kỳ sự đe dọa hoặc gây thách
thức cho những đối tượng ủy thác của bạn đều chất chứa một tiềm năng gây stress
rất lớn. Nếu bạn yêu một người, những mối đe dọa cho người ấy hoặc đe dọa
mối quan hệ giữa bạn với người ấy đều sẽ làm bạn khó chịu.
Đối tượng ủy thác tác động
lên sự nhận định của bạn thông qua việc ảnh hưởng lên sự nhạy cảm của bạn đối
với những kích thích nhất định. Chúng ta càng đầu tư nhiều vào một ai đó, một
mục đích hoặc một hoạt động nào đó, thì stress xảy ra càng nặng nề khi người
đó, mục đích đó, hoạt động đó bị đe dọa. Các đối tượng ủy thác càng làm tăng
thêm khả năng mẫn cảm của chúng ta đối với stress. Hãy nghĩ về một người mà bạn
yêu tha thiết; và bởi lòng quyến luyến quá mạnh của bạn, một sự khước từ của
người đó có thể khiến bạn bị tổn thương nghiêm trọng. Nhưng mặt khác, tình yêu
của bạn với người đó cũng mang đến cho bạn những giây phút vui tươi, thỏa mãn
và hài lòng. Đối tượng ủy thác chính là “con dao hai lưỡi” vậy!
Một ví dụ tương thích hơn về
sức khỏe là ý chí sống còn (will to live). Sự mất đi
người đồng hôn phối (đối tượng ủy thác quan trọng) thường dẫn đến bệnh tật và
làm tăng tử suất ở những bạn tình còn sống (Jacobs, Ostfeld, 1977;Parks,
1970). Trái lại, việc tìm thấy
những ý nghĩa và có được những đối tượng ủy thác mạnh mẽ có thể gia tăng những
cơ hội sống còn, thậm chí trong những tình huống xấu nhất. Tất cả những ai
còn sống sót từ những trại tập trung của Đức Quốc Xã đều cho biết rằng họ đã
tìm được một lý do nào đó để sống sót: sống để làm nhân chứng, sống vì lợi ích
của bà con thân thuộc, hoặc sống để trả thù (Frankl, 1959). Đối tượng ủy
thác động viên chúng ta tồn tại trong sự đối đầu với nghịch cảnh. Khi đương đầu
với một mối đe dọa cho điều mà chúng ta coi là quan trọng, chúng ta sẽ cố gắng
hết sức để loại bỏ mối đe dọa đó.
Một thông số cá nhân thứ hai
ảnh hưởng lên sự nhận định của chúng ta là sự
ý thức về khả năng kiểm soát sự kiện(sense of control over events).
Sự ý thức về khả năng kiểm soát sự kiện sẽ làm giảm stress, và thiếu điều này
sẽ làm tăng thêm stress. Ví dụ, Ferrare (1962) thấy rằng những người già
tự mình lựa chọn vào nhà dưỡng lão (có ý thức kiểm soát) thì sống lâu hơn những
người vào nhà dưỡng lão mà không tự chọn (ít khả năng kiểm soát). Tương tự,Langer và Rodin (1976) đã nghiên cứu những hiệu
quả của việc tăng cường khả năng kiểm soát ở những người già trong các nhà
dưỡng lão. Những ai được giao trách nhiệm và được tự lựa chọn công việc hằng
ngày và sắp xếp đời sống thì sẽ tỉnh táo hơn, tích cực hơn và vui vẻ hơn so với
nhóm người được để cho nhân viên nhà dưỡng lão chăm sóc. Những người được thúc
đẩy khả năng kiểm soát cho thấy tình trạng sức khỏe thể chất tốt hơn. Trong
vòng 18 tháng, số tử vong ở những người được tăng cường khả năng kiểm soát là
15% so với 30% trong nhóm kia.
Sự thiếu khả năng kiểm soát
- thực sự chỉ là cảm nhận như vậy - thường được gọi là sự “vô dụng” (helplessness) (Seligman,
1975). Sự vô dụng xảy ra khi khi đương sự cảm thấy hành vi của họ chẳng có hiệu
quả gì hoặc các sự kiện là không thể kiểm soát được. Điều này được đặc trưng
bởi tính thụ động trong hành vi, cảm xúc ức chế và tư tưởng tập trung vào sự
thất vọng. Người “vô dụng” sẽ ngưng cố gắng, thậm chí cả khi được chuyển sang
những điều kiện sống mới (Miller, Seligman,
1975). Họ có những kỳ vọng tiêu cực về bản thân, về tương lai và về thế giới (Beck,
1976). Họ tin rằng “Bản thân ta chẳng tốt gì. Thế gian này chẳng có gì tốt,
và tình thế cũng chẳng thể nào khá hơn”.
Sự nhận thức về khả năng
kiểm soát có ảnh hưởng lên sự tác động của stress đối với đương sự. Stress càng
gia tăng khi đương sự cảm thấy hành vi và kết quả không liên quan với nhau. Việc thiếu khả năng kiểm soát sẽ
dẫn đến những hậu quả tiêu cực đối với hành vi, tình cảm và sinh lý.
Các yếu tố thuộc về
tình huống
Các đặc tính của sự kiện
kích thích cũng có ảnh hưởng đến sự nhận định. Chúng ta sẽ tập trung vào hai
đặc tính sau:khả năng tiên đoán (predictability)
và sự hạn định thời gian (timing). Khả năng tiên
đoán là sự biết trước khi nào sự kiện sẽ xảy ra. Nói chung, những sự kiện có
thể tiên đoán được thì ít gây stress hơn những sự kiện không tiên đoán được. Sẽ
rất có lợi nếu ta biết trước được những sự kiện ngoài ý muốn có xảy ra hay
không, và nếu có thì xảy ra khi nào. Khả năng tiên đoán làm giảm mức độ đe dọa,
nguy hại và thách thức, bằng cách cho phép ta chuẩn bị ứng phó sự kiện và biết
được khi nào chúng ta được an toàn (Weinberg, Levine, 1980).
Tầm quan trọng của khả năng
tiên đoán được chứng minh trong nghiên cứu của Hunter (1979) trên những người vợ (Mỹ) có
chồng bị chết, bị mất tích, bị bắt hoặc đã trở về từ cuộc chiến tranh Việt Nam.
Khả năng tiên đoán của những người vợ ấy giảm dần theo thứ tự sau: chồng đã trở
về, bị giết, bị bắt và bị mất tích khi đang làm nhiệm vụ. Hunterthấy rằng những người vợ
có chồng bị mất tích trong chiến tranh đã biểu hiện tình trạng sức khỏe thể
chất và tinh thần ở mức xấu nhất. Họ phải đối đầu với một sự không chắc chắn
lớn lao nhất liên quan đến tình trạng hôn nhân, vai trò và trách nhiệm của họ.
Họ gần như đã bị cầm tù.
Sự xuất hiện chắc chắn của
stress cùng thời gian và tần số của nó cũng ảnh hưởng lên sự nhận định của
đương sự. Khi một sự kiện trở nên chắc chắn sẽ xảy đến, đương sự sẽ nhận thấy
nó càng lúc càng có tính thách thức và đe dọa.Mechanic (1062) thấy rằng những thí sinh
chuẩn bị thi lấy bằng tiến sĩ sẽ càng bị lo âu hơn khi kỳ thi đến gần. Một khi
kỳ thi thực sự bắt đầu, sẽ có sự giảm nhẹ đáng kể về cảm xúc và các triệu chứng
sẽ mất đi. Một thí sinh đã nói “Vào thi không tệ bằng biết trước về kỳ thi. Bạn
không phải lo lắng gì trong khi thi”.
Thời gian hiện diện của các
tác nhân gây stress cũng thay đổi từ những sự kiện có giới hạn về thời gian như
thi cử, nhổ răng, đến những sự kiện kéo dài như mâu thuẫn vợ chồng, tham gia
chiến đấu hoặc mắc bệnh ung thư. Thời
gian và tần số xuất hiện các tác nhân gây stress cũng được xem là có vai trò
trung tâm trong việc xác định những hậu quả tiêu cực của stress đối với sức
khỏe. Giả định cho rằng stress mạn tính làm suy mòn đương sự (Selye,
1956), nhưng vẫn còn quá ít nghiên cứu về tác động của các tác nhân gây stress
khác nhau về thời gian và tần số xuất hiện.
Theo quan điểm hệ thống, Stress bao gồm việc đương sự nhận
định một sự kiện là có hại, đe dọa hoặc thách thức, và tiềm năng ứng phó của
đương sự là không đầy đủ hoặc không hiệu quả. Những nhận định này là kết
quả từ sự tương tác giữa các đặc trưng của đương sự (đối tượng ủy thác, niềm
tin, các ký ức và kinh nghiệm) và những đặc trưng của sự kiện được nhận định
(khả năng tiên đoán, sự hạn định thời gian và tính nhập nhằng). Sự nhận định một kích thích là có
tính gây stress cũng được tạo nên từ sự khuấy động cảm xúc mà đến lượt nó lại tương
tác với sự nhận định của đương sự.
Quá trình ứng phó (coping)
Ứng phó là những hành động
thuộc về nhận thức và hành vi nhằm chế ngự những đòi hỏi của một sự kiện được
nhận định là có tính gây stress. Khi
đối đầu với một sự kiện gây stress, đương sự sẽ cố gắng “hóa giải” sự nguy hại
và phòng tránh sự đe dọa. Vẫn còn có ít dữ liệu về việc làm thế nào mà
đương sự ứng phó được với các tác nhân gây stress trong môi trường sống tự
nhiên. Sự biến hóa của các chiến lược ứng phó là vô hạn.
Có hai đích điểm chính của
sự ứng phó: tự thay đổi bản
thân mình (changing
ourselves) hoặc thay đổi
môi trường xung quanh (changing
the environment). Đương sự có thể lựa chọn hoặc thích nghi để phù hợp tốt
hơn với môi trường (“gió chiều nào theo chiều đó”) hoặc thay đổi môi trường để
thích hợp với nhu cầu bản thân của mình (phân hóa và chế ngự)1.
Ví
dụ, nhà hàng xóm của bạn tổ chức một bữa tiệc ồn ào làm phá giấc ngủ của bạn.
Bạn có thể chọn cách tham gia vào bữa tiệc (tự thay đổi) hoặc gọi cảnh sát
(thay đổi môi trường). Những cố gắng ứng phó có thể hoặc định hướng theo cảm
xúc (emotion-oriented)
hoặc định hướng theo vấn đề (problem-oriented). Sự ứng
phó định hướng cảm xúc nhắm vào việc giảm bớt sự khuấy động cảm xúc gây nên bởi
stress. Sự ứng phó định hướng vấn đề nhắm vào việc thay đổi sự kiện được xem là
có hại. Cả hai hướng ứng phó có thể được thực hiện đồng thời, hoặc riêng biệt,
và cũng có khi là không tương hợp với nhau.
Trong hầu hết các tình huống gây
stress, các cố gắng ứng phó đều tập trung vào cả hai hướng (Folkman, Lazarus, 1980). Hãy hình dung
rằng bạn đang rất căng thẳng về kỳ thi giữa niên khóa được tổ chức vào tuần
tới. Việc ứng phó định hướng vấn đề là làm sao tập trung vào việc học. Ứng phó
định hướng cảm xúc có thể dùng thuốc để giải bớt lo âu. Dường như việc ứng phó
định hướng vấn đề được ưa chuộng hơn vì nó giải quyết được “gốc rễ” của vấn đề;
nhưng ứng phó định hướng cảm xúc cũng rất quan trọng. Cảm xúc thường là khổ sở
và lo lắng, và có hậu quả bắt nguồn từ stress. Sự khuấy động cảm xúc cũng có
thể can thiệp vào các cố gắng về nhận thức và hành vi của đương sự khi ứng phó
với vấn đề. Trong vài trường hợp (như thiên tai hoặc bị thương tật), ít có khả
năng để chúng ta làm được điều gì nhằm giải quyết vấn đề; việc cơ bản là ứng
phó với tình trạng khuấy động cảm xúc được khơi lên từ các sự kiện ấy. Các
chiến lược ứng phó có ba hình thức:
Chiến lược ứng phó về nhận
thức (cognitive coping strategy)
Chúng ta có thể ứng phó với
những tác nhân gây stress hoặc với cảm xúc của chính mình bằng cách giải quyết vấn đề,tự nói
chuyện (self-talk) và tái nhận định (reappraisal). Giải quyết
vấn đề bao gồm việc phân tích tình huống để đề ra những hành động khả thi, đánh
giá những hành động đó và lựa chọn kế hoạch hành động hữu hiệu (Janis, Mann, 1977). Ví dụ, với kỳ thi
giữa niên khóa, việc giải quyết vấn đề có thể gồm làm sao để giảm bớt lo âu (định
hướng cảm xúc, đích là bản thân) (emotion-oriented, sefl as target);
học thế nào để được điểm cao (định hướng vấn đề, đích là bản thân) (problem-oriented,
sefl as target); vào học lớp nào để bớt lo (định hướng cảm xúc, đích là
môi trường) (emotion-oriented, environment as target); và làm sao
tranh thủ sự giúp đỡ của bạn bè để cùng học (định hướng vấn đề, đích là môi
trường) (problem-oriented, environment as target).
Tự nói chuyện một mình ngụ ý
chỉ những câu nói hoặc ý nghĩ thầm kín được dùng để hướng dẫn những cố gắng của
chúng ta vào việc ứng phó với sự kiện gây stress cùng những khuấy động cảm xúc
kèm theo nó. “Lời nói bên trong” ấy hướng sự chú tâm đến những kích thích thích
đáng, tạo điều kiện cho việc hình thành và thực hiện các chiến lược ứng phó và
cung cấp một sự phản hồi chính xác.
Tưởng tượng bạn đang ngồi trên chiếc ghế
của một nha sĩ, chờ làm răng. Bạn có thể tự nhủ “Vị nha sĩ là người thận trọng;
ông sẽ chăm sóc chứ không làm đau mình đâu” (định hướng cảm xúc, đích là môi
trường); hoặc “Mình căng thẳng quá, cần thở sâu để thư giãn” (định hướng
cảm xúc, đích là bản thân); “Nhìn những hình vẽ trên trần nhà kia có lẽ dễ
chịu hơn” (định hướng vấn đề, đích là môi trường); hoặc “Mình cần phải
đương đầu với nó đây” (định hướng vấn đề, đích là bản thân).
Tái nhận định gồm việc giảm
bớt tác động của sự kiện bằng cách thay đổi cách diễn giải sự kiện. Nói cách
khác, sự kiện sẽ được gán cho một ý nghĩa khác. Một thí sinh thi hỏng có thể
nghĩ rằng “Bài thi này thật khó quá sức” (định hướng vấn đề, đích là môi
trường), hoặc “Hôm nay xui thật” (định hướng vấn đề, đích là bản thân).
Sự tức giận này có thể được nhận định lại bằng cách nghĩ rằng “Ông thầy thật
đáng ghét, mình có quyền tức giận được chứ” (định hướng cảm xúc, đích là môi
trường) hoặc “Chẳng đáng gì, khóa học này dù sao cũng không quan trọng” (định
hướng cảm xúc, đích là bản thân).
Chiến lược ứng phó về hành
vi (behavioral coping strategy)
Đương sự cũng phải ứng phó
với stress bằng hành vi. Nói chung, có bốn loại đáp ứng với stress bằng hành
vi: tìm kiếm thông tin, hành động trực tiếp, kiềm chế hành động và quay sang người khác.
Tìm kiếm thông tin (seeking information) là thâu thập dữ liệu về bản chất của tác
nhân gây stress và về các chiến lược ứng phó khả thi. Một người khi biết mình
bị ung thư có thể tìm kiếm thông tin về tiên lượng của bệnh này thông qua một
nhân viên y tế (Haan, 1977). Người đó có thể dựa vào sự thay đổi kích
thước của khối u có thể sờ nắn được để đánh giá hiệu quả của điều trị (Norenz, Leventhal, Love, 1982). Thông tin vì thế
sẽ giúp ích cho các chiến lược ứng phó và tăng cường cảm giác về khả năng kiểm
soát và tiên đoán sự kiện.
Hành động trực tiếp (direct action) là công khai các đáp ứng bằng lời nói hoặc
hành động nhằm làm thay đổi tác nhân gây stress hoặc các khuấy động cảm xúc
liên quan đến stress. Một người bị bong gân cổ chân có thể nghỉ ngơi, dùng
thuốc giảm đau hoặc đến bác sĩ khám. Một người vừa bị mất đi người mà mình
thương yêu có thể tự “chôn” mình trong công việc, hoặc xem những bức hình cũ
của người quá cố cho vơi bớt nỗi buồn.
Kiềm chế hành động (inhibiting action) là không làm một điều gì đó nhằm làm giảm
bớt stress và các khuấy động cảm xúc. Một người bị ho kinh niên có thể ngưng
hút thuốc lá. Tránh các tình huống tạo nên lo âu cũng thích hợp với loại đáp
ứng này. Ví dụ, đương sự thường hay “quên” các cuộc hẹn với nhân viên y tế vì
bị đau hoặc bị ngượng ngùng khi được khám bệnh. Loại ứng phó sau cùng về hành vi
- quay sang người khác (turning to others) - theo
truyền thống thường được gọi là sự
hỗ trợ xã hội (social
support).
Hỗ trợ xã hội (Social
support)
Cụm từ “quay sang người
khác” được dùng ở đây vì nó nhấn mạnh vào bản chất tích cực và tương hỗ của
chiến lược ứng phó này. Mối
tương quan giữa bản thân chúng ta và những người khác tạo nên nguồn lực quan
trọng để ứng phó với stress. Chúng ta có thể nhận được sự hỗ trợ vật chất,
tinh thần và thông tin từ những người khác. Hỗ trợ vật chất gồm tiền bạc, hàng
hóa và các dịch vụ sẵn có từ những người khác (Cohen, McKay, 1984). Hỗ trợ tinh thần
là khi cảm thấy mình được người khác yêu thương, đánh giá cao và có cơ hội để
trao đổi những cảm giác ấy (Cobb, 1976). Hỗ trợ thông tin là khi được
người khác cho ý kiến về ý nghĩa của những sự kiện gây stress, hoặc cho lời
khuyên về những chiến lược ứng phó và cung cấp một phản hồi về tính đúng đắn
của các cố gắng ứng phó này (Cohen, McKay,
1984).
Hỗ trợ xã hội có thể điều
chỉnh stress bằng hai cách. Đầu tiên, một sự hỗ trợ như thế có thể phòng ngừa
được stress.Biết được những người khác sẽ chăm sóc và giúp đỡ mình là một
cách để phòng ngừa stress vì các sự kiện khi ấy sẽ được xem là ít có tính đe
dọa (Singer, Lord, 1984). Việc thiếu sự hỗ
trợ xã hội có liên quan đến tình trạng sức khỏe kém. Ví dụ Berkman và Syme (1979) đã thấy rằng hỗ trợ xã hội
là một yếu tố tiên lượng khiêm tốn nhưng rất quan trọng về tình trạng tử vong,
ngay cả khi tình trạng sức khỏe ban đầu, các hành vi gây tổn hại sức khỏe và
tình trạng xã hội đã được kiểm soát. Những ai ít có những mối quan hệ xã hội
thường có tỷ lệ tử vong cao hơn.
Hỗ trợ xã hội cũng có thể
làm giảm bớt những ảnh hưởng tiêu cực của stress khi nó đã xuất hiện. Ví dụ, hỗ
trợ xã hội có liên quan đến thời gian sống còn được kéo dài hơn ở những bệnh
nhân ung thư (Weisman, Worden,
1975). Một số lớn vấn đề được báo cáo ở những bệnh nhân là các vấn đề về giao
tiếp. Chúng bao gồm sự khó giao tiếp với người khác về bệnh ung thư, nói chuyện
với những thành viên trong gia đình về tương lai và việc thu thập thông tin từ
những nhân viên y tế (Wortman, Dunken-Schetter,
1979). Nhân viên y tế, gia đình và bạn bè có thể giúp bệnh nhân ung thư làm rõ
vấn đề và đoan chắc điều gì sẽ xảy đến với họ, biểu hiện tình yêu thương, sự
chăm sóc, và cùng nhau phát triển những chiến lược ứng phó với các nhu cầu về
thể chất và tinh thần của bệnh ung thư cùng việc điều trị bệnh này. Hỗ trợ xã
hội cũng kích thích sự lành bệnh bằng cách thúc đẩy người bệnh gắn bó hơn với
việc điều trị (Suls, 1982).
Những yếu tố xác định
nên chiến lược ứng phó
Một số lớn chiến lược ứng
phó có thể được áp dụng để đáp ứng với stress. Việc chọn lựa chiến lược chịu
ảnh hưởng bởi các thông số thuộc về bản thân đương sự cũng như các thông số
thuộc về tình huống. Những thông số cá nhân nhưgiá trị (value) và niềm tin (belief) sẽ làm phát sinh
hoặc loại bỏ một số cách thức hành động và ảnh hưởng đến cách thức của đương sự
ứng phó như thế nào với tác nhân gây stress. Một kiểu cách đáp ứng cũng phải có
sẵn trong “vốn sống” của đương sự trước khi nó có thể được sử dụng để ứng phó
với các tác nhân gây stress. Ly hôn là một giải pháp hợp lý để giải quyết mâu
thuẫn vợ chồng (trong những tình huống không thể hòa giải), nhưng nó lại là
điều không thể chấp nhận được ở những ai có niềm tin rằng ly hôn là có tội. Một
đáp ứng quyết đoán dường như là cách chọn lựa hợp lý để ứng phó với những kẻ
không biết điều, nhưng có nhiều người đã không biết cách biểu lộ những cảm giác
và ý kiến của mình một cách trực tiếp và mạnh mẽ như thế. Tóm lại, các kiểu hành động ứng phó
phải “có sẵn” nơi đương sự và được đương sự chấp nhận.
Tình huống xảy ra tác nhân
gây stress cũng có thể ảnh hưởng đến phương thức mà đương sự áp dụng để ứng
phó. Hiển nhiên rằng, tác nhân gây stress tự nó có thể thúc đẩy tính khả dụng
và hiệu quả của các chiến lược ứng phó. Nỗi mất mát từ cái chết của một người
mà mình thương yêu chủ yếu đòi hỏi một hình thức ứng phó định hướng cảm xúc,
bởi không thể nào làm người chết sống lại. Nội dung của tác nhân gây stress
cũng thúc đẩy sự ứng phó. Hậu quả không hay sẽ xảy ra nếu một người nào đó đánh
ông chủ của mình vì những yêu cầu làm việc không hợp lý. Những cố gắng ứng phó
do vậy thường phải làm sao phù hợp với những áp lực và đòi hỏi của môi trường.
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét