BS.
NGUYỄN MINH TIẾN (dịch và tổng hợp)
Phần II
SINH LÝ HỌC CỦA STRESS
Chúng ta biết rằng những xáo
trộn trên một bình diện của một hệ thống sẽ dẫn đến những thay đổi trong các
bình diện khác của hệ thống đó. Trong khi stress dẫn đến sự nhận định rằng sự
kiện là có tính đe dọa hoặc có hại, thì việc nhận định này cũng sẽ sinh ra
những đáp ứng sinh lý cũng như những đáp ứng về cảm xúc và hành vi. Trong phần
này, chúng ta sẽ xem xét chi tiết về sinh lý học của stress.
Những con đường sinh học
được kích hoạt trong stress
Đáp ứng sinh lý đối với
stress được điều hòa thông qua thông qua hệ thần kinh, nội tiết và hệ miễn
dịch. Các đáp ứng thần kinh, nội tiết và miễn dịch xảy ra với sự khác biệt về
khuynh độ thời gian (temporal gradient). Các đáp ứng sinh lý tức thì
được điều hòa bởi hệ thần kinh
thực vật (ANS: autonomic nervous system). Các
đáp ứng trung gian được điều hòa bởi tuyến tủy
thượng thận, một tuyến nội tiết nằm dưới sự kiểm soát của ANS. Các đáp ứng
dài hạn được điều hòa bởi hệ
nội tiết và hệ miễn dịch. Mỗi một trong số
các hệ thống này đều có những ảnh hưởng rộng rãi trên các mô đích (target
tissue) trong cơ thể (Allen, 1983). Những đáp ứng này lại được kiểm
soát bởi vùng hạ đồi(hypothalamus)
- một nhóm những neuron thần kinh nằm ở vùng đáy não. Hạ đồi cùng với hệ limbic (phần não điều hòa cảm xúc) kiểm
soát những chức năng cơ bản của cơ thể như ăn, uống, sinh hoạt tình dục, cảm
xúc, sự vui thích (pleasure) và sự trừng phạt (punishment). Hệ
limbic và hạ đồi lại chịu ảnh hưởng của vỏ
não - phần ngoài cùng của não
có vai trò điều hòa các chức năng cao cấp như suy nghĩ, lý luận và ký ức.
Hệ thần kinh thực vật
Hệ thần kinh thực vật (ANS)
kiểm soát các quá trình cơ bản của cơ thể như nhịp tim, hô hấp, huyết áp và
tiêu hóa. ANS cũng kiểm soát chức năng các nội tạng mà chúng ta rất ít nhận
biết được. Hệ ANS gồm hai phần: hệ
giao cảm(sympathetic) và đối
giao cảm (parasympathetic).
Hệ giao cảm chuẩn bị cho cơ thể thực hiện những hành động; tác dụng chung của
nó trên các mô đích là gây “khuấy động” (arousal). Hệ đối giao cảm liên
quan đến việc duy trì những nhu cầu cơ bản của cơ thể. Tác động của nó nói
chung được ví như công việc của một người nội trợ: thải bỏ chất cặn bã, xây
dựng kho dự trữ năng lượng và săn sóc cơ thể khi bị nhiễm trùng. Hai hệ này có
tác dụng đối kháng nhau. Ví dụ, hệ giao cảm làm tăng nhịp tim, trong khi đối
giao cảm làm nhịp tim chậm lại, chúng tác dụng như “tay ga” và “thắng” khi lái
xe. Tác động sau cùng trên một cơ quan nhất định là một chức năng do sự hoạt
hóa tương đối của hai hệ này.
Sự hoạt hóa hệ giao cảm xảy
ra thường nhất trong stress và chuẩn bị cho đương sự thực hiện những hành động
mạnh mẽ, “chống hoặc chạy”, nhằm ứng phó với các tác nhân gây stress. Tăng nhịp
tim, tăng sức co bóp của cơ tim và tăng cung lượng tim sẽ đẩy nhanh việc cung
cấp oxy và năng lượng cho hoạt động mạnh của các khối cơ lớn (cho phản ứng
“chống hoặc chạy”). Các mạch máu đến cơ vân giãn ra, tăng sự cấp máu cần thiết
cho hoạt động cơ. Các mạch máu đến ruột co lại, làm chậm quá trình hấp thu thức
ăn. Mạch máu đến da cũng co lại, hạn chế sự mất máu trong trường hợp bị chấn
thương. Khả năng đông máu tăng lên, cũng giúp hạn chế sự mất máu khi chấn
thương. Cả huyết áp tâm thu và huyết áp tâm trương đều tăng. Sự gia tăng nhịp
thở và giãn phế quản cho phép tăng trao đổi O2 và CO2, đáp ứng với
nhu cầu khi hoạt động mạnh. Thoát mồ hôi nhằm thải bớt thân nhiệt gia tăng quá
mức. Các chức năng cơ thể không góp phần vào sự sinh tồn trước mắt đều sẽ bị
ngưng lại. Có sự giảm hoạt động tiêu hóa. Nhu động ruột chậm lại; các cơ vòng
đường tiêu hóa và tiết niệu co lại hạn chế sự thải các chất bã.
Đáp ứng giao cảm, hay phản
ứng “chống hoặc chạy”, được khơi dậy nhanh chóng để đáp ứng với stress vì nó
được điều hòa qua trung gian các giao nối thần kinh (neural connection).
Đó là những đáp ứng tương đối tự động và đã được “lập trình” về mặt sinh học để
đáp ứng với các tác nhân gây stress cả về thể chất lẫn tâm lý. Tất cả chúng ta
đều trải qua những biến đổi này khi bị ai đó đe dọa, khi thình lình gặp một con
rắn, hoặc khi suýt bị tai nạn xe cộ. Những thay đổi này cũng xảy ra trong đáp
ứng với những mối đe dọa cho sức khỏe tâm lý của chúng ta như khi dự thi, cảm
giác giận một ai đó, hoặc khi phải nói trước đám đông. Nhưng cơ thể chúng ta
phản ứng như nhau trong trong cả hai tình huống, không khác biệt.
Tủy thượng thận (adrenal
medulla)
Tác động của hệ thần kinh
thực vật chỉ ngắn hạn. Sự khuấy động được duy trì bởi một cơ chế trung gian: sự
phóng thích epinephrine (E) và norepinephrine (NE) từ tủy thượng thận. Tuyến
thượng thận được định vị ở trên đỉnh của hai quả thận và gồm hai vùng có chức
năng độc lập: vùng tủy và vùng vỏ. Do sự kích hoạt thần kinh giao cảm, E và NE
sẽ được phóng thích từ tủy thượng thận. Một khi vào máu, E và NE sẽ lưu hành và
gây ảnh hưởng trên các cơ quan đích. Tác động của chúng cũng giống như sự kích
hoạt giao cảm. Chúng tăng cường và kéo dài sự khuấy động sinh lý gây ra do sự
kích hoạt giao cảm, và vì thế cũng tạo điều kiện cho phản ứng “chống hoặc
chạy”. Hệ quả sau cùng của tác động này là tăng nhịp tim, huyết áp, hô hấp và
tăng đường huyết; giảm hoạt động của hệ tiêu hóa.
Đáp ứng của thượng thận xảy
ra chậm hơn nhưng kéo dài hơn đáp ứng giao cảm, vì nó liên quan đến cả hai con
đường thần kinh và hóa học. Nói chung, cần khoảng 20-30 phút để các tác dụng
sinh lý của E và NE được thể hiện. Những tác dụng này kéo dài khoảng một giờ
hoặc hơn, vì E và NE được thải chậm khỏi hệ tuần hoàn. Thời gian tác dụng của E
và NE từ thượng thận lâu gấp 10 lần so với đáp ứng giao cảm.
Hệ nội tiết và hệ miễn
dịch
Hệ nội tiết và hệ miễn dịch
điều hòa giai đoạn 3 của các biến đổi sinh lý trong đáp ứng với stress. Bốn
tuyến nội tiết cơ bản có liên quan đến đáp ứng với stress: tuyến yên (pituitary), tuyến giáp (thyroid), vỏ thượng thận (adrenal cortex) và tuyến tụy (pancreas). Các tuyến này
tiết ra những hormone vào hệ tuần hoàn gây tác dụng trên các cơ quan đích. Trái
với sự kích hoạt giao cảm và tác dụng của E và NE từ tủy thượng thận, sự kích
hoạt các hormone trong đáp ứng stress cần thời gian từ nhiều phút đến nhiều giờ
trước khi tác dụng được biểu hiện tại cơ quan đích. Tác dụng của các hormone
cũng kéo dài lâu hơn. Hình 4-4 cho thấy một tổng quan về hệ nội tiết. Tuyến yên nằm ở phần đáy não và được kiểm
soát bởi vùng hạ đồi. Tuyến yên thường được gọi là tuyến “chủ đạo” (master
gland) vì nó có ảnh hưởng kiểm soát các tuyến nội tiết khác.
Tuyến yên được
chia thành hai phần: thùy trước và thùy sau. Thùy trước tiết ra 6 loại hormone;
5 trong số này là các hormone “định hướng” (trophic hormone) bởi vì
chúng ảnh hưởng đến sự tiết hormone của các tuyến khác. Trong đáp ứng stress,
chúng ta chỉ tập trung vào 2 loại hormone “định hướng” là ACTH(Adrenal Cortex Trophic
Hormone) và TSH (Thyroid Stimulating Hormone).
Hormone thứ sáu của thùy trước tuyến yên là GH (Growth Hormone). GH không phải là
hormone “định hướng”; nó có tác dụng trực tiếp lên mô đích một cách độc lập với
các hormone khác. Sự phóng thích các hormone từ thùy trước tuyến yên chịu sự
chi phối bởi các tín hiệu hóa học từ vùng hạ đồi. Vùng hạ đồi phóng thích ra
các thông điệp hóa học, mà đến lượt chúng lại bị kiểm soát bởi lượng hormone
lưu hành trong máu (cơ chế feedback âm), và bởi những sợi thần kinh ly
tâm đi từ hệ limbic và vỏ não.
Thùy sau tuyến yên tiết ra
hai hormone: ADH (Anti-Diuretic Hormone) và oxytocin. Cả hai đều có tác
dụng trực tiếp trên mô và không phải là hormone “định hướng”. Chỉ ADH có liên
quan đến đáp ứng stress. ADH thực ra được tổng hợp từ vùng hạ đồi, theo các
mạch máu nhỏ vận chuyển đến thùy sau tuyến yên để dự trữ. Sự phóng thích ADH
được kiểm soát bởi các thụ thể thẩm thấu (osmoreceptor) ở vùng hạ đồi
nhạy cảm với các nồng độ trong dịch cơ thể. Vì ADH ảnh hưởng lên các nồng độ
trong dịch cơ thể nên ở đây lại có sự hiện diện của một cơ chế feedback âm.
Trong stress có sự gia tăng
phóng thích GH từ tuyến yên. GH cho phép tăng tiêu dùng năng lượng trong tế bào
và làm tăng đường huyết (Asterita, 1985). Sự gia tăng năng lượng khả
dụng và sử dụng hiệu quả năng lượng ấy sẽ chuẩn bị cho đương sự thực hiện được
những hành động mạnh mẽ trong đáp ứng với stress. Trong stress, tuyến yên cũng
tiết ra ADH, chất này tác động lên thận làm tăng sự tái hấp thu nước và làm
tăng lượng dịch trong cơ thể (Asterita, 1985). Việc này bảo vệ cơ thể
chống lại sự mất máu và sốc do chấn thương. Và do làm tăng thể tích máu, nó
cũng gây tăng huyết áp.
Vỏ thượng thận là phần ngoài của tuyến thượng thận, từ đó có hai nhóm
hormone được phóng thích: glucocorticoid(GC)
và mineralocorticoid (MC). Sự phóng thích GC được kiểm
soát bởi ACTH của tuyến yên. Lượng GC tuần hoàn sẽ ảnh hưởng lên sự tiết ACTH ở
trục hạ đồi - tuyến yên. Trong stress, có sự tăng tiết ACTH và dẫn đến tăng
tiết GC ở vỏ thượng thận. GC huy động protein và mỡ từ các mô, biến đổi protein
và mỡ thành glucose tại gan. Điều này làm tăng chất đường và mỡ trong máu, sẵn
sàng cho đương sự có nguồn năng lượng cần thiết cho các đáp ứng với stress. GC
cũng ảnh hưởng trên các đáp ứng của cơ thể với các chấn thương và nhiễm trùng.
Chúng ức chế tình trạng viêm trong chấn thương và nhiễm trùng, bằng cách ức chế
sự thoát huyết tương từ máu và ức chế khả năng di chuyển của bạch cầu đến vùng
bị chấn thương và nhiễm trùng. GC cũng ức chế đáp ứng miễn dịch bằng cách thu
nhỏ tuyến ức (thymus), lách và hạch bạch huyết, đồng thời ức chế sự phát
triển của tế bào lympho và sự tạo kháng thể (Asterita, 1985).
Sự gia
tăng phóng thích GC trong stress vì thế không chỉ giữ cho cơ thể có đủ năng
lượng2, mà còn kềm hãm cơ chế bảo vệ đã được “cài đặt” sẵn trong cơ
thể chống lại chấn thương và nhiễm trùng. Điều này có ý nghĩa, nếu chúng ta nhớ
rằng những mục đích trung gian của các đáp ứng sinh lý với stress là nhằm chuẩn
bị cho cơ thể thực hiện những hoạt động thể chất. Việc giảm quá trình viêm sẽ
giữ cho huyết tương ở lại trong dòng máu, ở đó nó có thể vận chuyển năng lượng
và những hoạt chất cần thiết cho phản ứng “chống hoặc chạy”. Việc sản sinh
lympho bào và kháng thể cần sử dụng protein mà GC cần đến để chuyển chúng thành
glucose để tạo năng lượng. Những “công việc nội trợ” giải quyết các chấn thương
và nhiễm trùng được “hy sinh” để giải quyết mối đe dọa trước mắt. Loại hormone
quan trọng thứ hai được phóng thích từ vỏ thượng thận là mineralocorticoid (MC). MC có tác dụng trên thận
giúp giữ nước và muối cho cơ thể. Việc này làm tăng thể tích máu và tăng huyết
áp, vì thế hỗ trợ cho tác dụng của ADH.
Tuyến giáp nằm ở cổ, ngay trước thanh quản. Sự phóng thích thyroxin của tuyến giáp được kiểm soát bởi
TSH của tuyến yên. Thyroxin làm tăng chuyển hóa và tiêu dùng glucose. Nó cũng
làm tăng tiêu dùng oxy trong tế bào. Trong stress, thyroxin được tăng tiết. Sự
huy động các nguồn năng lượng sẵn có và gia tăng tiêu dùng các năng lượng ấy
giúp cơ thể chuẩn bị các hoạt động ứng phó với stress (Asterita, 1985).
Tuyến tụy nằm kế dạ dày. Nó có chức năng như một tuyến nội tiết và
tiết ra hai hormone là insulin và glucagon. Sự tiết hai hormone
này được chi phối bởi đường huyết. Glucagon kích thích sự phóng thích chất
đường dự trữ vào trong máu. Trong stress, sự tiêu dùng quá nhiều đường do hoạt
động thể lực sẽ kích thích tiết glucagon để giúp bổ sung nồng độ glucose trong
máu, giữ cho cơ thể sẵn sàng hoạt động. Insulin thì có tác dụng ngược lại. Khi
đường huyết tăng cao, sự tiết insulin được kích thích, kết quả là làm tăng dự
trữ đường ở gan, cơ vân và mô mỡ. Đường huyết giảm do hoạt động trong tình
trạng stress sẽ ức chế tiết insulin. Trong khi sự tăng đường huyết do tăng
phóng thích E, NE, Thyroxin và GC trong stress thường sẽ kích thích tiết insulin.
Kết quả chung là làm tăng đường huyết để nhằm chuẩn bị sẵn năng lượng cần thiết
cho cơ thể “chống hoặc chạy” (Asterita, 1985).
Nồng độ GC cao cũng ức chế
hệ miễn dịch. Trong thực tế, chức năng đích thực của hệ miễn dịch phụ thuộc vào
nồng độ bình thường của những hormone khác. Những thay đổi nội tiết kèm theo
stress sẽ dẫn đến thay đổi chức năng miễn dịch. Tuyến ức và các mô khác có vai
trò trong đáp ứng miễn dịch cũng có thể bị biến đổi bởi hệ thần kinh thực vật.
Tác động của stress trên chức năng miễn dịch là rất phức tạp. Cả hai tình trạng
tăng và giảm miễn dịch đều đi kèm với stress, tùy theo điều kiện xảy ra stress
và tùy theo ta quan sát khía cạnh nào của chức năng miễn dịch.
Các đáp ứng sinh lý với
stress - Tóm tắt
Một hệ thống các đáp ứng
phức tạp được quan sát thấy trong stress; kích hoạt giao cảm trong thời gian
ngắn, phản ứng trung gian tiết E và NE từ tủy thượng thận, và các biến đổi kéo
dài của hệ nội tiết và hệ miễn dịch. Những đáp ứng này có tính bổ sung cho
nhau. Chúng chuẩn bị về sinh học giúp đương sự thực hiện những hành động mạnh
mẽ, liên tục để ứng phó với các tác nhân gây stress về cả thể chất lẫn tâm lý.
Hệ quả sinh lý chính của stress là tăng nhịp tim, tăng huyết áp, tăng đường
huyết, tăng đông máu, tăng chuyển hóa và tăng hô hấp; giảm các quá trình tiêu
hóa, bài tiết và viêm. Trong những điều kiện nhất định, stress cũng có thể ức
chế miễn dịch. Vì thế, stress có những tác động mạnh mẽ và rộng rãi.
Các đáp ứng sinh lý với
stress và những chiến lược ứng phó về nhận thức - hành vi
Chúng ta đã xem xét các đáp
ứng với stress và các chiến lược ứng phó về nhận thức - hành vi như những trạng
thái độc lập. Thật ra chúng có liên hệ phụ thuộc lẫn nhau. Đâu là bản chất của
mối liên quan này? Có hai lý thuyết để trả lời cho câu hỏi này: một nhấn mạnh
vào tính phổ quát (generality); một nhấn mạnh
vào tính đặc hiệu (specificity) của các đáp
ứng sinh lý. Những người theo quan điểm phổ quát (Selye, 1956; Wolf, 1950) cho rằng tất cả các
tác nhân gây stress đều tương đương nhau trong việc tạo ra sự hoạt hóa phổ quát
đã được lập trình sẵn về sinh học. Các biến đổi sinh lý vì vậy được xem là
giống nhau dưới mọi điều kiện stress và ứng phó với stress. Những người theo
quan điểm đặc hiệu cho rằng mức độ và mô hình của các đáp ứng với stress thay
đổi tùy theo sự nhận định, tình trạng khuấy động cảm xúc và đáp ứng nhận thức -
hành vi của đương sự đối với sự kiện gây stress (Mason, 1975a).
Vẫn còn thiếu dữ liệu hỗ trợ
một cách chắc chắn cho cả hai giả thuyết. Dường như có một sự khác biệt trong
mô hình khuấy động sinh lý tùy theo chiến lược được sử dụng để ứng phó với các
tác nhân gây stress. Ví dụ, mô hình đáp ứng khác nhau về tim mạch có liên quan
đến kiểu ứng phó chủ động hay thụ động (Obrist, 1976); tránh né hoặc
cảnh giác (Lacey, 1978). Những mô hình khác nhau về xuất tiết hormone
cũng liên quan đến những cảm giác khước từ hoặc lo lắng (Mason, 1975a);
giận dữ hoặc sợ hãi (Ax, 1953). Vì thế, các đáp ứng với stress không có
tính chất phổ quát và đồng nhất. Chỉ một phần các đáp ứng được kể đến trong
các phần trước có thể thấy được trong bất kỳ một mối tương giao gây stress nào
đó. Vài trường hợp, các đáp ứng sinh lý lại được phân chia thành nhiều đáp ứng,
cái này có thể thay đổi không kèm theo cái khác; ví dụ, huyết áp có thể tăng,
nhưng nhịp tim lại không thay đổi.
Các đáp ứng nhận thức - hành
vi và đáp ứng sinh lý thường bổ sung cho nhau. Đáp ứng sinh lý có tính tương
xứng với các chiến lược ứng phó về nhận thức - hành vi được áp dụng. Tư tưởng,
hành động và sinh lý của chúng ta có quan hệ qua lại với nhau; bình diện này
ảnh hưởng đến bình diện kia. Nếu không thì chúng ta sẽ cố gắng làm một việc này
trong lúc cơ thể chúng ta lại được chuẩn bị để làm một việc khác. Trái với lý
thuyết hoạt hóa phổ quát, có
lẽ không có một mô hình khuấy động sinh lý duy nhất nào xảy ra với mọi sự kiện
gây stress, mọi chiến lược ứng phó và mọi đáp ứng cảm xúc, do có một sự linh
hoạt giới hạn trong các đáp ứng sinh lý đối với stress (Holroyd, 1979).
STRESS - MỘT QUÁ TRÌNH
Từ một cách nhìn hệ thống, stress là một đáp ứng tích hợp, đa
bình diện (multilevel) của đương sự đối với các kích thích
bên trong và bên ngoài. Các bình diện đáp ứng khác nhau có tính phụ thuộc
lẫn nhau.
Có một khuynh hướng suy nghĩ
về stress theo một cách thức “thẳng tắp”: kích
thích - cơ thể sống- đáp ứng: Một sự kiện nào đó xảy ra, đương sự nhận thấy
sự kiện có tính đe dọa, và kế đó sinh đáp ứng về cảm xúc, hành vi và sinh lý.
Mối tương giao khi ấy được hoàn tất. Tuy nhiên, đây không phải là sự thể hiện
đúng đắn về một mối tương giao gây stress khi nó xảy ra trong môi trường tự
nhiên (Lazarus, Folkman,
1984).
Stress được khái niệm hóa tốt hơn như là một quá trình tiếp diễn, hai
chiều và lập đi lập lại (Leventhal, Nerenz,
1983). Khi đối đầu với tác nhân gây stress, các đáp ứng sinh lý và sự ứng phó
đầu tiên của chúng ta sẽ làm biến đổi sự kiện. Kế đó, chúng ta nhận định lại sự
kiện đã bị biến đổi ấy, rồi điều chỉnh lại các đáp ứng sinh lý và ứng phó của
chúng ta sao cho phù hợp; rồi đáp ứng này lại làm biến đổi sự kiện, cứ thế tiếp
diễn... Việc ứng phó theo kiểu định hướng vấn đề sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến
kích thích gốc. Ứng phó kiểu định hướng cảm xúc ảnh hưởng gián tiếp đến “đầu
vào” bằng cách thay đổi sự nhận định hoặc phản ứng cảm xúc của đương sự đối với
sự kiện. Vì thế, stress và đáp ứng là một quá
trình xoay vòng (circular
process) trong đó những cố gắng ứng phó làm biến đổi sự kiện theo một vòng
cung phản hồi (feedback loop). Để thêm tính phức tạp, chúng ta lại
thường ứng phó với nhiều tác nhân gây stress chồng chéo lên nhau bằng những
cách thức phức tạp.
Tóm lại, stress có thể
được xem là một đáp ứng đa bình diện của một con người đối với các kích thích
được nhận định là đe dọa hoặc có hại. Đáp ứng này có thể ít nhiều cải thiện
được kích thích gây stress.
HỆ QUẢ THÍCH NGHI (ADAPTATIONAL
OUTCOMES)
Quan niệm về stress như một
quá trình liên tục, lòng vòng, dẫn đến việc xem xét về những hệ quả thích nghi,
hoặc những tác dụng lũy tiến theo thời gian của những cố gắng ứng phó của chúng
ta với tác nhân gây stress. Những hệ quả thích nghi có thể được xem như trạng thái
sinh học - tâm lý của một người ở một thời điểm nào đó; nó giống như một khuôn
hình đứng yên của một cuốn băng video. Hoạt động được ghi trong khuôn hình đó
có thể được hiểu dựa trên những gì xảy ra trong một số khuôn hình trước đó (hệ
quả thích nghi ngắn hạn) hoặc nhiều khuôn hình trước đó (hệ quả thích
nghi dài hạn). Chúng ta có thể lượng giá những hệ quả thích nghi trên các
bình diện sinh lý, nhận thức, cảm xúc, hành vi và xã hội. Nói cách khác, sức
khỏe thể chất , cảm xúc, sự thỏa mãn, thái độ, năng lực hành vi và các mối quan
hệ xã hội của con người là một phần trong kết quả chung của khả năng tương giao
giữa họ với môi trường sống.
Trước khi bàn đến những hệ
quả thích nghi một cách đầy đủ hơn, có hai điểm quan trọng cần nhớ.
Thứ nhất, stress không nhất thiết phải có một tác
động tiêu cực. Stress còn có thể được xem như một như một động lực thúc đẩy
tăng trưởng, phát triển tinh thần hăng say và các năng lực thuần thục. Điều này
được ẩn chứa trong những ý niệm về sự
thử thách (challenge), đối tượng ủy thác (commitment) và sự hỗ trợ xã hội (social support). Những
người được bảo vệ tránh stress quá mức có lẽ có nguy cơ cao bởi vì họ không thể
phát triển được những kỹ năng ứng phó cần thiết trong đời sống hằng ngày (Murphy,
1979). “Thiếu stress” vì thế cũng có thể gây ảnh hưởng tiêu cực (Frankenhaeuser,
1978).
Stress có thể dẫn đến những hệ quả tích cực. Giải quyết thành công những
đe dọa và thách thức sẽ đưa đến những cảm xúc tích cực, tạo nên những cảm giác
về tính hữu dụng của bản thân và sức khỏe thể chất.Thứ hai, các hệ quả
thích nghi là kết quả của một số yếu tố đi kèm theo tình trạng stress. Sẽ là
sai lầm khi thay thế lý thuyết về mầm mống sinh-y học gây ra bệnh tật bằng quan
niệm cho rằng stress làyếu tố duy nhất và quan trọng nhất giúp thích nghi về
thể chất và tâm lý - xã hội. Để xử lý stress, mà chỉ tạo nên một lý thuyết về
mầm mống tâm lý - xã hội, thì cũng sẽ không hoàn hảo giống như chỉ dựa vào một
lý thuyết về sinh-y học vậy. Chúng ta sẽ xem xét những phương thức mà stress có
thể ảnh hưởng đến sự thích nghi về sinh lý.
Sự thích nghi về sinh lý
Từ stress đến bệnh
Sự khuấy động sinh lý đi kèm
theo stress là một đáp ứng thích nghi, ngắn hạn đối với những kích thích đe dọa
hoặc có hại về thể chất. Sự khuấy động sinh lý thúc đẩy đương sự thực hiện những
hành động mạnh mẽ để tránh né, trốn thoát, hoặc khắc phục mối đe dọa thể chất
ấy. Do những phát triển về văn hóa xã hội trong hàng trăm năm qua, chúng ta đã
tương đối ít đương đầu với những mối đe dọa về thể chất. Ngày nay, phần lớn các
tác nhân gây stress đều có bản chất tâm lý-xã hội, và vì thế không còn tuân
theo các giải pháp “chống hoặc chạy” nữa, tuy nhiên sự hoạt hóa sinh lý (physiological
mobilization) vẫn xảy ra. Khi đối đầu với một mối đe dọa về thể chất, sự
hoạt hóa này tương đối ngắn. Chúng ta hoặc sẽ giải quyết thành công mối đe dọa
này hoặc là sẽ bị giết chết. Nhưng đối với những tác nhân gây stress về tâm
lý-xã hội, sự hoạt hóa sẽ xảy ra thường xuyên và trong một thời gian dài. Cái
cơ chế thích nghi về sinh học-hành vi khi ứng phó với những đe dọa về thể chất
dường như ít có tính thích nghi khi giải quyết các đe dọa về tâm lý-xã hội.
Khi tần số, cường độ và thời
gian xảy ra sự hoạt hóa sinh lý đi kèm theo stress trở nên quá mức, nó có thể
gây nên những tác dụng tai hại (Depue, Monroe, Shachman, 1979). Tần số, cường
độ và thời gian diễn ra sự hoạt hóa tùy thuộc vào sự nhận định của đương sự về
môi trường sống và những kỹ năng ứng phó của họ. Sự hoạt hóa quá mức có thể xảy
ra khi đương sự nhận định sai lầm một sự kiện vô hại thành một sự kiện thật sự
đe dọa hoặc có hại, và khi họ không có đủ những kỹ năng và tiềm năng ứng phó
hiệu quả với các tác nhân gây stress.
Nghiên cứu về tương quan,
dịch tễ (Cohen, 1979) và thực nghiệm (Miller, 1980) thấy rằng có
một mối liên quan rõ rệt, tuy vừa phải, giữa tần số, cường độ và có lẽ cả thời
gian xảy ra stress với sức khỏe. Stress không phải là yếu tố duy nhất quyết
định tình trạng sức khỏe. Tương tác của nó với những hành vi liên quan sức khỏe
và với các yếu tố môi trường và sinh học sẽ được bàn đến trong những chương
khác.
Từ bệnh đến stress
Stress không chỉ góp phần
tạo nên bệnh, mà bệnh và việc điều trị bệnh cũng có thể gây stress. Liên quan
này có tính hai chiều.
Bệnh và việc trị bệnh cũng khiến đương sự nhận biết mối đe dọa về thể chất,
cũng như về tâm lý-xã hội của họ. Bệnh và việc trị bệnh cũng thể hiện những
công việc thích nghi trên nhiều bình diện. Stress gây nên do bệnh và việc trị
bệnh có thể ảnh hưởng trên diễn tiến và tiên lượng bệnh, và làm cho khả năng
lành bệnh thêm phức tạp.
Chất lượng của những kỹ thuật chăm sóc sức khỏe hiện
có đối với bệnh nhân đóng vai trò quan trọng trong việc phục hồi về mặt sinh
lý. Tuy nhiên, bệnh và việc trị bệnh thường có tính gây stress và cần đến sự
ứng phó định hướng vấn đề và định hướng cảm xúc. Nếu một người bệnh thiếu những
kỹ năng ứng phó, thì bệnh và việc trị bệnh có thể sẽ gây nên sự khuấy động sinh
lý thường xuyên, nặng nề và kéo dài, mà điều này có thể can thiệp vào khả năng
lành bệnh. Quan hệ thầy thuốc và bệnh nhân cũng ảnh hưởng đến sự lành bệnh vì nó
đóng vai trò quan trọng trong khả năng của người bệnh ứng phó với stress do
bệnh và việc trị bệnh gây ra.
Nghiên cứu về tương quan và thực nghiệm cho thấy
bệnh nhân được cung cấp thông tin chính xác và cung cấp những chiến lược ứng
phó hiệu quả sẽ thích nghi tốt hơn về cảm xúc, hành vi, xã hội và sinh lý (Turk, Meichenbaum, Genest, 1983). Ví dụ, những
nghiên cứu về hiệu quả của những trường hợp sinh con được chuẩn bị tốt cho thấy
việc cung cấp thông tin, khả năng kiểm soát, tiên đoán và các chiến lược ứng phó
cho những bà mẹ tương lai sẽ giúp làm giảm đau, giảm sử dụng các phương pháp vô
cảm, tăng sự hợp tác của thai phụ khi lâm bồn, giảm mất máu, giảm các can thiệp
sản khoa và giảm thời gian chuyển dạ. Sự huấn luyện như vậy cũng có lợi cho trẻ
sơ sinh do tăng cung cấp oxy trong máu thai, chỉ số Apgar cao hơn, giảm bệnh
tật và tử vong (Genest, 1981).
Các mối liên hệ khác
giữa stress và bệnh tật
Các đáp ứng dùng để ứng phó
với stress cũng có thể được đánh giá dựa trên kết quả của chúng nhằm làm tổn
hại hay tăng cường cho sức khỏe. Các hình thức ứng phó với stress thường gặp,
như hút thuốc và uống rượu, đưa những chất gây bệnh vào trong cơ thể. Các hình
thức khác như thư giãn và tập thể dục lại có tác dụng có lợi.
Nếu stress thường xuyên,
nặng nề, mạn tính góp phần gây bệnh, liệu những sự kiện và cảm xúc tích cực
thường xuyên có thể tăng cường sức khỏe hoặc tạo nên hiệu quả lành bệnh được
không? Trong khi có một số bằng chứng lẻ tẻ cho rằng chuyện này có thể đúng,
nhưng việc kết luận thì vẫn còn thiếu nhiều dữ liệu.
TÓM
TẮT
Từ mô hình hệ thống,
những rối loạn trên một bình diện của hệ thống có thể ảnh hưởng đến những bình
diện khác. Mối liên quan giữa stress và sức khỏe cho thấy một hiệu quả như thế.
Stress không chỉ gợi lên những ứng phó về cảm xúc và hành vi, mà còn dẫn đến
những biến đổi sinh lý. Khi có một sự mất cân bằng liên tục giữa những đòi hỏi
đặt ra cho đương sự và khả năng ứng phó của đương sự, các tác động tiêu cực về
sinh lý có thể xảy ra.
Stress không nhất thiết
là tiêu cực và chắc chắn không phải là yếu tố quyết định sức khỏe duy nhất
(hoặc quan trọng nhất). Stress không thể tránh được. Nó là sản phẩm của mối
tương giao giữa một cá thể với môi trường sống. Nó là phần tàng ẩn trong một hệ
thống mở. Stress thậm chí còn có tính khích lệ và tạo nên sự tăng trưởng. Tuy
nhiên, khi stress vượt quá tiềm năng ứng phó của chúng ta, nó có thể gây ra
những tác động tai hại.
Sức khỏe của con người
được xác định một cách phức tạp. Nó bị ảnh hưởng thông qua các cơ chế tâm sinh
lý gián tiếp mà ta gọi là STRESS. Nó cũng chịu ảnh hưởng bởi các hành vi giúp
tăng cường sức khỏe hoặc gây tác hại cho sức khỏe, bởi các hành động và quyết
định nhằm đáp ứng với bệnh tật và việc điều trị bệnh. Các thông số tâm lý vì
thế cũng có vai trò quan trọng đối với sức khỏe.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét